CÁC BIẾN TỐ NGHIÊN CỨU
Biến tố (variable) là một khái niệm có thể
giả định cho nó nhiều giá trị khác nhau.
Nhân tố (factor) hay đặc điểm/ nét đặc trưng (feature) là những từ đồng nghĩa phổ biến với biến tố trong những câu sau đây: (Kết quả, hay tác động (outcome) là một từ khác cũng thường mang nghĩa như biến tố, nhưng cần lưu ý không phải tất cả các biến tố đều là kết quả/tác động):
Nhân tố (factor) hay đặc điểm/ nét đặc trưng (feature) là những từ đồng nghĩa phổ biến với biến tố trong những câu sau đây: (Kết quả, hay tác động (outcome) là một từ khác cũng thường mang nghĩa như biến tố, nhưng cần lưu ý không phải tất cả các biến tố đều là kết quả/tác động):
1. Mọi phụ
huynh đều nhận thức được AIDS là một nhân tố (biến tố) đe dọa sức khỏe nghiêm
trọng cho con cái họ.
2. Thầy cô
giáo cần biết những đặc điểm (biến tố) nào trong các biện pháp kỷ luật của mình
có thể đã thúc đẩy sự tự nhận thức tiêu cực trong học sinh.
3. Thầy cô
giáo cần biết liệu biện pháp kỷ luật của mình có thúc đẩy những kết quả (biến tố)
tiêu cực trong học sinh hay không.
Biến tố có thể có những ý nghĩa khác nhau
trong những điều kiện khác nhau. Nó là một đặc điểm có thể trở thành tiêu điểm
của một công trình nghiên cứu.
Định nghĩa thuật ngữ biến tố khiến
khái niệm này có vẻ như khó hiểu hơn bản chất thực sự của nó. Đó là vì định
nghĩa của một khái niệm trừu tượng đôi khi trở thành quá trừu tượng (chẳng hạn,
ai cũng hiểu khái niệm tồn tại, nhưng định nghĩa tồn tại là
gì thì thật là khó). Bởi vậy, có lẽ sẽ có ích khi xem xét vài ví dụ:
·
Trong những ví dụ mà chúng ta đã bắt đầu xem xét ở trang (..…), trừng
phạt thể xác là một biến tố. Cụ thể hơn, liệu trừng phạt thể xác
có được phép thực hiện hay không là một biến tố. Nó có thể là được phép hoặc
không được phép.
·
Tần số của việc trừng phạt thể xác cũng có thể là một biến tố. Nó có
thể là không hề xảy ra hay xảy ra hàng ngày hoặc nhiều lần trong ngày.
·
Nếu một người nghiên cứu tự hỏi liệu trừng phạt thể xác có gây ra lo lắng nhiều
hơn so với việc đuổi học thì trừng phạt thể xác, sự lo lắng, và đuổi
học đều là các biến tố cần nghiên cứu đối với nhà nghiên cứu này.
·
Nếu người nghiên cứu tập trung chú ý những nhân tố khác như bạo hành trẻ em, kỷ
luật tự giác, niềm tin tôn giáo, giới tính của học sinh hay thầy cô giáo, hay
nguồn gốc dân tộc, những nhân tố này sẽ trở thành biến tố trong một công trình
nghiên cứu, hay thậm chí trong quá trình tư duy.
Về mặt lý thuyết các biến tố phát triển một
cách trừu tượng trong tâm trí người nghiên cứu. Nhà nghiên cứu rút ra từ những
kinh nghiệm trước đây và những tri thức lý thuyết để xác định và cụ thể hóa các
biến tố, những biến tố này sẽ phục vụ như những nhân tố thống nhất cho việc tổ
chức quá trình nghiên cứu. Mọi tư duy của con người đều dựa trên các khái niệm,
mà chúng ta gọi là biến tố khi tập trung sự chú ý để đo lường nó hay xử lý nó
theo nhiều cách như là một phần của quá trình nghiên cứu. (Những cách các nhà
nghiên cứu định nghĩa và đo lường các biến tố sẽ được đề cập trong những chương
sau).
Phần tiếp theo của chương này sẽ bàn về những
loại nghiên cứu cơ bản trong đó có khảo sát những biến tố mà các nhà giáo dục rất
quan tâm.
Sau đây chúng ta sẽ mô tả những loại công
trình nghiên cứu cơ bản hữu ích cho mục đích của giáo dục. Những miêu tả này sẽ
giúp bạn thấy rõ loại nghiên cứu nào khả dĩ thực hiện được và bắt đầu xác định
các biến tố. Những kiểu loại này cũng không nhất thiết loại trừ lẫn nhau. Chẳng
hạn, loại thứ nhất được gọi là nghiên cứu miêu tả, nhưng thực ra thì tất cả mọi
nghiên cứu đều có tính chất miêu tả. Tại điểm này của giáo trình, chúng ta sẽ
không cần lo lắng về mức độ trùng lắp giữa các kiểu loại nghiên cứu ấy. Như bảng
2.1 cho thấy, chiến lược thực hiện mỗi kiểu nghiên cứu sẽ được trình bày trong
những chương tiếp theo. Chúng ta sẽ đợi đến khi sự khác biệt giữa các kiểu
nghiên cứu trong thực tế tỏ ra đủ lớn rồi sẽ chỉ ra sự phân biệt ấy.
Bảng 2.1 Các kiểu nghiên cứu trong khoa học
giáo dục
Loại
nghiên cứu
|
Diễn
giải
|
Chương
|
Nghiên cứu miêu tả định lượng- nghiên cứu
hiện trạng
|
Người nghiên cứu dùng những phương pháp định
lượng (như bảng hỏi hoặc kỹ thuật quan sát) để thu thập thông tin về đặc điểm
của một người, một nhóm một chương trình, hay một thực thể giáo dục nào đó.
|
Chương 4 đến chương 8
|
Nghiên cứu định
tính
|
Người nghiên cứu dùng những phương pháp định
tính (như mô tả dân tộc học hay nghiên cứu điển hình chi tiết) để thu thập
thông tin về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
|
Chương 9
|
Người nghiên cứu giao cho các thành viên
hoạt động trong các cấu trúc điều kiện hay giao cho họ nhiệm vụ xử sự theo những
cách cho trước, để xác định xem liệu những cách xử sự ấy có ảnh hưởng như thế
nào trên các biến tố tác động nhất định.
|
Chương 11-12
|
|
Nghiên cứu
tương quan
|
Người nghiên cứu dùng những kỹ thuật thống
kê chẳng hạn như hệ số tương quan để khảo sát quan hệ giữa hai hay nhiều biến
tố mà không khái quát hóa về bản chất nguyên nhân của mối quan hệ ấy.
|
Chương13
|
Nghiên cứu
nhóm tiêu chí
|
Người nghiên cứu khảo sát đặc điểm của
các nhóm đang hiện hữu (tức là, không phải những nhóm thực nghiệm) để xác định
mức độ khác biệt của các nhóm này về những đặc điểm cụ thể nào đó.
|
Chương 13
|
Phân
tích tổng hợp (Meta-analysis)
|
Người nghiên cứu kết hợp và phân tích kết
quả của nhiều công trình để khảo sát mức độ mà những kết quả được kết hợp này
có thể dẫn tới các khái quát hóa về các biến tố đang được nghiên cứu.
|
Chương 16
|
Trong phần lớn những công trình nghiên cứu
về giáo dục, người nghiên cứu đều quan tâm tới việc đo lường kết quả (họ cũng
có thể quan tâm tới những biến tố khác, nhưng điều này sẽ được thảo luận sau). Biến
tố kết quả là khái niệm hay đặc điểm về kết quả hay sản phẩm sau
cùng của một hệ thống giáo dục. Đó chính là kết quả của giáo dục- những tính
cách hay sự kiện mà người thầy hay những người làm giáo dục mong muốn khuyến
khích hay hạn chế trong khuôn khổ của hệ thống giáo dục. Trong giả thuyết thứ
nhất về vấn đề trừng phạt thể xác đã nêu ở phần trên, tình trạng hỗn loạn,
vô chính phủ là cái kết quả mà ta cần tập trung đặt câu hỏi. Trong
ví dụ thứ nhì, biến tố kết quả là kỷ luật tự giác. Trong ví dụ thứ ba,
kết quả là mức độ mà hội đồng trường có thể trụ vững được trước sự chống đối của
những nhóm vận động ủng hộ. Bạn hãy thử tự mình trả lời: Biến tố kết quả trong
những nhận định từ (a) đến (d) của ví dụ 4 trang (…), là gì?
Câu trả lời:
a. tần số của những trừng phạt thể
xác
b. tần số của những trừng phạt thể xác và đồng
thời tần số của những hình thức trừng phạt khác
c. những mặt ảnh hưởng tiêu cực
d. những kiểu cách trừng phạt mà người thầy
thường áp dụng, sự dễ dãi mà người thầy bày tỏ hay những phương pháp khác mà
người thầy dùng đến; những lý giải nhằm đi đến giải pháp.
Trong thực tế, các thành viên của hội đồng
trường thường quan tâm đến nhiều yếu tố hơn chứ không chỉ một trong các biến tố
kết quả đã nêu. Bằng cách chọn lọc vấn đề cần giải quyết thông qua việc xác định
các biến tố kết quả, họ có thể tập trung tốt hơn vào một giải pháp cho vấn
nạn của mình.
Chúng ta hãy giả định rằng một trong những
câu hỏi mà hội đồng trường thực sự muốn có câu trả lời, là trong thực tế những
hình phạt thể xác xảy ra trong trường thường xuyên đến mức độ nào. Làm thế nào
người nghiên cứu có thể thu thập được các dữ kiện? Bảng 2.2 cho thấy các bước
liên quan trong việc trả lời câu hỏi này (một số chương kế tiếp sẽ miêu tả chi tiết
làm cách nào thực hiện một công trình nghiên cứu theo kiểu này). Câu hỏi thứ
hai được đặt ra là tần số trừng phạt thể xác ở trường này so với những trường
khác trong cả nước thì như thế nào. Hội đồng trường có thể tìm
câu trả lời này trong các ấn phẩm chuyên ngành; Bảng 2.3 cho thấy những bước đi
mà một nhà nghiên cứu được trang bị để trả lời cho câu hỏi thứ hai này sẽ tiến
hành.
Bảng 2.2 Những bước
cần thực hiện để trả lời câu hỏi “ Hình thức trừng phạt thể xác được áp dụng
thường xuyên ở mức độ như thế nào trong trường này?” (cột bên phải cho biết
những bước này được trình bày ở chỗ nào trong quyển sách này)
|
|
Các bước nghiên cứu
|
Chương
|
1. Xác định biến tố kết quả và làm rõ câu
hỏi nghiên cứu
|
2
|
2. Xem lại những tư liệu thành văn đã
công bố để biết những gì người khác đã trình bày về việc đo lường kết quả này
|
3
|
3. Định nghĩa thế nào là trừng phạt thể
xác
|
4
|
4. Xác định những phương pháp đo lường sự
trừng phạt thể xác
|
5-6
|
5. Thực hiện quy trình thu thập dữ liệu
|
5-6
|
6. Lập các bảng biểu, tổng hợp và diễn giải
kết quả
|
7 |
Bảng 2.3 Những bước cần thực hiện để trả lời câu hỏi
“ Hình thức trừng phạt thể xác được áp dụng thường xuyên ở mức độ như thế nào
trong cả nước?” (cột bên phải cho biết những bước này được trình bày ở chỗ
nào trong quyển sách này)
|
|
Các bước nghiên cứu
|
Chương
|
1. Xác định biến tố kết quả và làm rõ câu
hỏi nghiên cứu
|
2
|
2. Xem lại những tư liệu thành văn đã
công bố để biết người ta đã nói gì về việc đo lường kết quả này
|
3
|
3. Định nghĩa thế nào là trừng phạt thể
xác
|
4
|
4. Xác định những phương pháp dùng để đo
lường sự trừng phạt thể xác
|
5-6
|
5. Chọn mẫu thích hợp để thu thập dữ liệu
|
8
|
6. Thực hiện quy trình thu thập dữ liệu đối
với mẫu đã chọn
|
5-6
|
7. Lập các bảng biểu, tổng hợp, rút ra kết
luận và diễn giải kết quả
|
7-8
|
8. Viết báo cáo tổng kết nhằm truyền đạt
kết quả nghiên cứu tới người đọc
|
19
|
Những công trình nghiên cứu miêu tả thường
tập trung riêng về đo lường và miêu tả các biến tố kết quả (trong chương 1
chúng ta đã nói tới điều này với tư cách là Nghiên cứu Cấp độ I). Phương pháp
tiến hành một công trình nghiên cứu miêu tả được tập trung trình bày từ chương
4 đến chương 8. Khi thu thập số liệu, chẳng hạn đếm xem trừng phạt thể xác xảy
ra thường xuyên ở mức độ nào, bằng cách dùng một bảng câu hỏi để đo lường
thái độ của mọi người đối với sự trừng phạt thể xác, bằng cách liên hệ những biến
tố này với những biến tố khác, hoặc bằng cách dự đoán- những nghiên cứu này được
coi là nghiên cứu miêu tả định lượng. Trong khi đó, nghiên cứu định
tính (chương 9) thường xem xét các biến tố và kết quả với một ý thức toàn thể
nhiều hơn; chẳng hạn, người nghiên cứu có thể quan sát một lớp học qua một thời
gian kéo dài và ghi chép những thông tin có tính chất giai thoại về những gì xảy
ra khi có tình trạng lộn xộn. Cả hai phương pháp này đều có giá trị xác đáng và
là những cách thức quan trọng để miêu tả bối cảnh cũng như kết quả của giáo dục.
Nghiên cứu thực nghiệm làm nhiều việc hơn
chứ không chỉ là miêu tả bối cảnh và kết quả. Nó khảo sát quan hệ nhân quả. Chẳng
hạn, nếu hội đồng trường muốn biết rằng liệu việc hủy bỏ sự trừng phạt thể xác
có làm gia tăng tình trạng hỗn loạn vô chính phủ hay không, thì là họ đang đặt
câu hỏi về bản chất nhân quả của mối quan hệ giữa sự trừng phạt thể xác
và sự gia tăng tình trạng hỗn loạn vô chính phủ. Để trả lời
câu hỏi này, họ cần nhiều hơn một nghiên cứu miêu tả. Họ cần phải xem xét kết
quả của một nghiên cứu thực nghiệm!
Nghiên cứu thực nghiệm tập trung vào cách xử
lý và kết quả của cách xử lý đó. (Nghiên cứu này cũng có thể bao gồm thêm những
biến tố khác, chẳng hạn như bối cảnh trong đó thử nghiệm này được tiến hành). Kết
quả được mong đợi từ cách xử lý này được coi như biến tố độc lập, hay biến
tố tiêu chí. Những biến tố kết quả như vậy được coi là biến tố phụ thuộc
theo nghĩa chúng phụ thuộc vào cách xử lý được đưa ra. Nó đưa
ra một tiêu chí có thể trở thành cơ sở để nhận định về kết quả của thử nghiệm.
Nếu cách xử lý đem lại một ảnh hưởng nào đấy, mức độ đạt được của một người về
biến tố phụ thuộc có thể thấp; trong khi nếu cách xử lý có một tác động khác,
thì mức độ đạt được này có thể cao hơn.
Cách xử lý, bối cảnh, hay những điều kiện
được coi là tạo ra một kết quả nào đấy được xem như biến tố độc lập (thuật ngữ biến
tố độc lập, cách xử lý hay điều kiện được dùng đồng
nghĩa trong văn cảnh này). Biến tố độc lập thì độc lập theo nghĩa nó không
phụ thuộc vào biến tố kết quả. Nói cách khác, trong nghiên cứu thực nghiệm,
biến tố độc lập là nguyên nhân và biến tố phụ thuộc là tác động. Biến tố độc lập
là cách xử lý; biến tố phụ thuộc là kết quả.
Khảo sát từng giả thuyết hay câu hỏi dưới
đây và xác định các biến tố phụ thuộc và biến tố độc lập (tất cả các câu trả lời
cho phần ôn tập này đều nằm ở cuối chương tương ứng):
1. Việc học
tập, nghiên cứu về Shakespeare sẽ dẫn đến sự trân trọng nhiều hơn đối với văn
hóa phương Tây.
2. Việc điều
chỉnh hành vi xử sự sẽ dẫn đến cách xử sự phi sáng tạo trong trẻ tiểu học.
3. Việc lập
trình trong ngôn ngữ Logo có phải là nguyên nhân tạo ra những tiến bộ trong kỹ
năng tư duy có trật tự cao hơn?
4. Trì
hoãn dạy đọc cho đến lớp 6 sẽ không tạo ra tác dụng ngược có hại cho khả năng đọc
trước khi đến tuổi dậy thì của trẻ.
5. Có đúng là những lớp học nhấn mạnh vào môi trường giàu ngôn từ sẽ
có những học sinh hăng hái chia sẻ ý kiến của mình với bạn đồng lứa?
Click here for answers.
Click here for answers.
Trong từng trường hợp trên đây, biến tố độc
lập tạo ra một kết quả nào đấy, và kết quả này được nói đến như là một biến tố
phụ thuộc. Có thể lưu ý rằng môt số biến tố (chẳng hạn như cách xử sự phi sáng
tạo, học tập nghiên cứu Shakespeare, và sự trân trọng đối với văn hóa phương
Tây) được định nghĩa một cách khá mơ hồ. Những định nghĩa về mặt hoạt động (sẽ
được bàn đến trong chương 4) sẽ giúp xóa bỏ sự nhập nhằng tối nghĩa này.
Hãy giả định rằng một trong những câu hỏi
mà hội đồng trường muốn có câu trả lời là liệu việc xóa bỏ sự trừng phạt thể
xác có làm gia tăng những cách xử sự lộn xộn trong trường hay không. Nhà nghiên
cứu sẽ thu thập dữ liệu bằng cách nào? Bảng 2.4 cho thấy những bước liên quan
trong việc tìm câu trả lời. (Chương 10 đến chương 14 sẽ miêu tả chi tiết cách
thực hiện nghiên cứu loại này). Lưu ý rằng khi bảng 2.4 đưa ra một phương pháp
thực nghiệm nhằm trả lời câu hỏi này, nó cũng có thể đồng thời xử lý câu hỏi
này thông qua một chiến lược nghiên cứu định tính. (chương 9) hay một chiến lược
tương quan (chương 13) hay bằng cách thực hiện phân tích tổng hợp (chương 16).
Bảng 2.4 Những bước cần thực hiện để trả lời câu hỏi
“Liệu việc xóa bỏ hình thức trừng phạt thể xác có phải là nguyên nhân tạo ra
sự gia tăng tình trạng hỗn loạn?” (cột bên phải cho biết những bước này được
trình bày ở chỗ nào trong quyển sách này)
|
|
Các bước Nghiên cứu
|
Chương
|
1. Xác định biến tố phụ thuộc và biến tố
độc lập, cũng như làm rõ câu hỏi nghiên cứu.
|
2
|
2. Xem lại những tư liệu thành văn đã
công bố để biết người ta đã nói gì về tác động của trừng phạt thể xác, đặc biệt
là đối với những cách xử sự vi phạm kỷ luật, là điều mà hội đồng trường muốn
nói tới khi dùng từ “tình trạng hỗn loạn”.
|
3
|
3. Định nghĩa thế nào là trừng phạt thể
xác và thế nào là tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ.
|
4
|
4.Xác định một loạt phương pháp để đo lường
tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ.
|
5-6
|
5. Xây dựng chiến lược thực nghiệm phù hợp
để kiểm tra tác động của biến tố độc lập này đối với biến tố phụ thuộc đã xác
định.
|
11-12
|
6. Thực hiện chiến lược thực nghiệm.
|
11-12
|
7. Lập các bảng biểu và diễn giải kết quả
nghiên cứu.
|
14
|
8. Viết báo cáo tổng kết nhằm truyền đạt
kết quả nghiên cứu tới người đọc
|
19
|
Nghiên cứu tương quan là những nghiên cứu
miêu tả trong đó người nghiên cứu không chỉ miêu tả các biến tố mà còn khảo sát
bản chất của mối quan hệ định lượng giữa những biến tố đó. Ví dụ, người nghiên
cứu có thể đặt nghi vấn rằng những đứa trẻ thường bị trừng phạt thể xác thì nhiều
khả năng là sẽ đánh những đứa trẻ khác trong giờ chơi. Nhà nghiên cứu này quan
tâm tới không chỉ hai biến tố (bị nhiều trừng phạt thể xác và đánh trẻ khác
trong giờ chơi), mà còn quan tâm tới mối quan hệ giữa hai biến tố này (và có lẽ
với những biến tố khác nữa). Nhà nghiên cứu có thể điều tra khả năng này bằng
cách đưa ra một bảng câu hỏi cho một nhóm trẻ để xem chúng bị đánh đòn thường
xuyên tới mức nào, và bằng cách quan sát chính nhóm trẻ ấy trong sân trường để
xem mỗi đứa trẻ ấy đã đánh trẻ khác (nếu có) thường xuyên đến mức độ nào. Nếu
có một xu hướng là những đứa trẻ đánh bạn nhiều lần hơn chính là những đứa trẻ
đã bị trừng phạt thường xuyên hơn, thì sự kiện này sẽ hỗ trợ cho niềm tin
rằng có một mối quan hệ giữa các sự kiện ấy. Loại nghiên cứu này cho phép nhà
nghiên cứu xác định có chăng một mối quan hệ nào đó giữa sự lãnh nhận trừng phạt
thể xác và hành vi đánh nhau trong một nhóm trẻ.
Mỗi giả thuyết sau đây đều có thể được điều
tra bằng những phương pháp tương liên:
·
Học sinh nào giỏi môn đại số học thì chơi tốt hơn môn thể dục.
·
Những người đến sớm khi đi điều trị thường cũng đến sớm trong các sự kiện thể
thao.
·
Có một mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa điểm GRE và mức độ thành công trong
khóa học này.
Những bước đi trong một công trình nghiên cứu
tương liên cũng giống như những gì đã được miêu tả trong Bảng 2.4, trừ một điều
là thiết kế thực nghiệm sẽ được thay bằng phương pháp tương quan, điều này sẽ
được thảo luận trong chương 13.
Lưu ý rằng sự tồn tại một mối quan hệ không
nhất thiết có nghĩa là một biến tố này là nguyên nhân của các biến tố khác. Chẳng
hạn, nếu có một mối quan hệ giữa sự tác động của trừng phạt thể xác với hành vi
đánh nhau của học sinh, nó có thể là vì sự trừng phạt thể xác là nguyên nhân
gây ra hành vi đánh nhau, vì việc đánh nhau gây ra hành vi trừng phạt, hay bởi
vì những nhân tố nào khác nữa (chẳng hạn sự tự nhận thức tiêu cực về bản thân)
dẫn tới gia tăng cả hai hành vi này.
Biến tố điều tiết (gọi tắt là biến điều tiết)
là những đặc điểm ảnh hưởng (điều tiết) tác động của biến tố độc lập hay của biến
tố xử lý đối với biến tố phụ thuộc hay biến tố tiêu chí. Biến điều tiết chỉ xuất
hiện trong những công trình nghiên cứu có các biến độc lập và biến phụ thuộc- thường
là các nghiên cứu thực nghiệm. Trong các giả thuyết sau đây, giới tính của đứa
trẻ chẳng hạn, có thể coi là một biến điều tiết:
- Việc sử dụng âm nhạc bình dân sẽ làm tăng sự trân trọng của trẻ tiểu học đối với thơ ca. Tác động này đối với trẻ nữ lớn hơn là đối với trẻ nam.
Trong ví dụ này, việc sử dụng nhạc bình dân
là một biến độc lập và sự trân trọng thơ ca là một biến phụ thuộc. Giới tính của
đứa trẻ là biến điều tiết vì nhận định trên đây cho thấy nhân tố này ảnh hưởng
với mức độ khác nhau trong ảnh hưởng của biến độc lập đối với biến phụ
thuộc: nếu đứa trẻ là nữ, nhạc đại chúng có xu hướng có tác động lên sự trân trọng
đối với thơ ca, trong lúc nếu đứa trẻ là trai, cũng một biến tố độc lập ấy sẽ
có xu hướng có một tác động với mức độ khác.
Trong các ví dụ đã nêu, giới tính của đứa
trẻ chỉ đơn thuần là một trong nhiều biến tố có thể được chọn làm biến điều tiết.
Sau đây là hai biến tố khác của cùng một giả thuyết, với một số biến điều tiết
khác được chèn vào từng trường hợp:
· Việc dùng
âm nhạc đại chúng sẽ làm tăng sự trân trọng của trẻ tiểu học đối với thơ ca.
Tác động này đối với trẻ lớn thì rõ rệt hơn đối với trẻ nhỏ.
· Việc dùng
âm nhạc đại chúng sẽ làm tăng sự trân trọng của trẻ tiểu học đối với thơ ca.
Tác động này sẽ lớn hơn khi giáo viên là người cùng giới tính với trẻ so với
khi giáo viên là người khác phái.
Có thể dễ dàng thấy những thuận lợi của việc
sử dụng những biến tố điều tiết này. Nhà nghiên cứu (hay người đọc) có thể khám
phá không chỉ về việc liệu một cách xử lý nào đấy có tác động như mong muốn hay
không, mà còn là trong bối cảnh nào thì tác động ấy có nhiều khả năng
xảy ra với những mức độ khác nhau ra sao. Đây là thông tin cực kỳ hữu ích
giúp chúng ta khái quát hóa kết quả cho những tình huống khác, cũng như giúp
chúng ta áp dụng có chọn lọc kết quả ấy cho những loại người học khác nhau
trong những bối cảnh giáo dục nhất định.
Sau đây là nhận định lại về hai giả thuyết
đầu đã nêu trong Câu hỏi Ôn tập 2.1. Biến điều tiết được thêm vào mỗi giả thuyết.
Để tránh ngôn ngữ định kiến và để cho thấy bức tranh toàn cảnh về việc các biến
tố điều tiết có thể được đưa vào áp dụng trong nghiên cứu như thế nào, cách
dùng từ ngữ sẽ khác nhau trong mỗi giả thuyết.
1. Học tập
và nghiên cứu về Shakespeare dẫn tới gia tăng sự trân trọng đối với văn hóa
phương Tây trong những học sinh đang học trong trường nhưng không có tác động ấy
với học sinh ngoài trường.
2. Việc điều
chỉnh cách xử sự sẽ làm giảm những ứng xử có tính sáng tạo của học sinh tiểu học
thuộc các trường dành cho giai cấp trung lưu nhưng sẽ làm gia tăng những ứng xử
có tính sáng tạo trong những trường dành cho giai cấp dưới trung lưu.
Bây giờ bạn hãy thử xác định các biến điều tiết trong những giả thuyết sau đây, một lần nữa điều chỉnh từ Câu hỏi Ôn tập 2.1.
3. Lập trình
bằng ngôn ngữ Logo sẽ tạo ra những tiến bộ cụ thể trong kỹ năng tư duy có trật
tự cao trong những người đọc chậm, những người không bị liệt vào loại thiểu
năng học tập.Tuy nhiên, sẽ không có những tiến bộ như thế đối với những người bị
liệt vào loại thiểu năng học tập.
4. Trì hoãn
việc dạy đọc cho đến lớp 6 sẽ không có tác dụng ngược đối với khả năng đọc trước
khi trẻ đến tuổi dậy thì. Điều này đúng đối với học sinh có chỉ số thông minh
(IQ) thấp cũng như đối với học sinh có IQ trung bình và cao.
5. Những lớp
tiểu học nào nhấn mạnh một môi trường ngôn ngữ phong phú sẽ có những học sinh
hăng hái chia sẻ ý kiến của mình với bạn đồng học hơn. Tuy nhiên, trong những lớp
học của tầng lớp trung lưu, môi trường phong phú về ngôn ngữ sẽ không có
tác dụng như vậy.
Biến điều tiết trong các giả thuyết nói
trên là:
1. Học
sinh viên trong trường và học sinh ngoài trường
2. Giai cấp
xã hội của nhà trường
3. Có được
phân loại là thiểu năng học tập hay không
4. Chỉ số
thông minh của học sinh
5. Lớp cao
hay lớp thấp của bậc học (tiểu học hay trung học)
Trong mỗi ví dụ này, giả thuyết ban đầu đã
được làm phong phú thêm bằng việc bổ sung các biến điều tiết. Trong từng trường
hợp, biến điều tiết là một nhân tố có thể ảnh hưởng tới tác động của biến độc lập
lên biến phụ thuộc. Đối với mỗi ví dụ, cũng có thể chọn những nhân tố khác làm
biến điều tiết; biến điều tiết thực sự được chọn trong mỗi công trình nghiên cứu
tùy thuộc vào chỗ nhà nghiên cứu quan tâm muốn biết điều gì trong mối quan hệ
giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc.
Biến chứng (control variable), cũng có thể dịch là biến
kiểm soát, là những đặc điểm được người thực nghiệm kiểm soát nhằm làm giảm
bất cứ tác động nào có thể gây nhiễu cho các biến tố khác hoặc cho việc diễn giải
kết quả của nghiên cứu. Họ kiểm soát những biến tố không liên quan đến vấn đề
đang được đề cập (sẽ được thảo luận sau trong chương này). Sự kiểm soát này có
thể được thực hiện thông qua:
1. Cô
lập và loại trừ. Chẳng hạn, người nghiên cứu có thể kiểm soát các ảnh hưởng
không liên quan đến sự thông minh bằng cách chỉ bao gồm những học sinh thông
minh ở mức trung bình trong công trình nghiên cứu của mình, loại trừ những em
có năng khiếu đặc biệt và những em có trí thông minh dưới trung bình. Đây là một
chiến lược có hiệu quả sẽ được miêu tả kỹ hơn trong chương này.
2. Miêu
tả chính xác bối cảnh, cách xử lý, hay chủ thể được nghiên cứu. Một sự
miêu tả chi tiết, rõ ràng, chính xác, không mơ hồ sẽ tạo điều kiện cho những
người áp dụng kết quả nghiên cứu có được một phán đoán xác đáng về mức độ khái
quát hóa mà kết quả của một công trình nghiên cứu cụ thể nào đấy có thể áp dụng
cho những bối cảnh khác. Đây là chiến lược hiệu quả được trình bày trong các
chương 9 và 15.
3. Làm
bằng nhau giữa các nhóm. Phương pháp này thường được dùng trong nhũng
nghiên cứu thực nghiệm. Chẳng hạn, người nghiên cứu có thể kiểm soát các tác động
bên ngoài đến vấn đề thông minh bằng cách chọn ngẫu nhiên những chủ thể để thực
nghiệm và các nhóm kiểm soát, bằng cách đó làm cho nó tương tự nhau nhiều hơn
(về mặt thông minh, thí dụ thế, hay về nhiều biến tố khác). Đó là chiến lược hiệu
quả sẽ được miêu tả trong chương 11.
Trong bất cứ công trình nghiên cứu nào,
người nghiên cứu cũng có thể chọn và miêu tả các biến chứng để giúp
xác định các giới hạn trong việc khái quát hóa kết quả của một nghiên cứu. Hơn
nữa, trong các nghiên cứu thực nghiệm, người nghiên cứu có thể chọn các biến
chứng vì các nhân tố này có thể ảnh hưởng tới tác động của biến độc lập
lên biến phụ thuộc. Những ảnh hưởng bên ngoài này khiến chúng ta khó xác định
chính xác bản chất của mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc. Bởi vậy,
người nghiên cứu cần kiểm soát những nhân tố bên ngoài này nhằm cân bằng hay giảm
bớt ảnh hưởng của nó trong từng công trình nghiên cứu cụ thể.
Chúng ta hãy xem xét hai giả thuyết ví dụ
trên đây mà chúng ta đã dùng trong cả chương này, và bây giờ chúng ta sẽ thêm
vào đó các biến chứng:
1. Trong số
học sinh lớp lớn, việc học về Shakespeare sẽ dẫn tới sự trân trọng nhiều hơn đối
với văn hóa phương Tây.
2. Sự điều
chỉnh hành vi sẽ dẫn tới những cách xử sự phi sáng tạo trong học sinh tiểu học ở
trường công của thành phố Gotham.
Trong giả thuyết đầu, “học sinh lớp lớn” được
thêm vào như một biến chứng. Có thể là ảnh hưởng của việc học
Shakespeare sẽ khác nhau đối với học sinh ở những lứa tuổi khác nhau. Bởi vậy,
cấp lớp của học sinh có thể tác động đến cách các em đáp ứng với tác phẩm của
nhà viết kịch này. Do vậy nhà nghiên cứu đã quyết định chỉ tính các em học sinh
lớp lớn trong nghiên cứu này mà thôi. Điều này sẽ hạn chế sự tác động của các
nhân tố bên ngoài, nhưng tất nhiên cũng sẽ giới hạn sự khái quát hóa chỉ trong phạm
vi trẻ lớn. Logic vấn đề là thế này:
· Học sinh
trong nhóm thực nghiệm (những em đã học Shakespeare) được đo lường là tỏ ra có
sự trân trọng đối với văn hóa phương Tây hơn là những em trong nhóm kiểm soát
(những em không học Shakespeare).
· Vì chỉ
có các em học sinh lớp lớn trong cả hai nhóm, sự khác biệt trong mức độ trân trọng
đối với Shakespeare không thể nảy sinh từ sự khác biệt cơ bản giữa trẻ lớp nhỏ
và trẻ lớp lớn.
· Bởi vậy,
ảnh hưởng của cấp lớp (lớp nhỏ/lớp lớn) đã được kiểm soát; nhưng những khái
quát hóa rút ra từ thực nghiệm này cũng chỉ đúng vói trẻ lớp lớn bậc trung học
mà thôi.
Trong giả thuyết thứ hai, có ba biến chứng:
cấp lớp của trẻ (tiểu học thay vì cấp hai hay cấp ba), kiểu loại trường (trường
công thay vì trường tư), và nơi chốn (thành phố Gotham).
Trong những ví dụ đã nêu trước đây, chúng
ta đã thêm các biến chứng vào giả thuyết ban đầu trước khi những giả
thuyết này được làm cho phong phú hơn bằng việc bổ sung các biến điều tiết. Rất
có thể có (và thường thì đây là điều đáng mong muốn) có cả biến chứng và biến
điều tiết trong cùng một nghiên cứu. Mỗi ví dụ sau đây đều chứa đựng các biến độc
lập, biến phụ thuộc, biến điều tiết và biến chứng. Biến điều tiết được in
nghiêng, còn biến chứng thì được in đậm.
3. Đối với trẻ ở tuổi từ 9 đến 11, lập
trình bằng ngôn ngữ Logo sẽ tạo ra những tiến bộ cụ thể trong kỹ năng tư
duy có trật tự cao trong số những trẻ đọc chậm không bị xếp vào loại thiểu
năng học tập. Tuy nhiên, sẽ không có những tiến bộ như thế trong những trẻ
đọc chậm ỏ tuổi 9-11 bị xếp vào loại thiểu năng học tập.
4. Đối với trẻ không bị áp lực bên
ngoài từ bố mẹ trong việc học đọc, việc trì hoãn dạy
đọc cho đến lớp 6 sẽ không có tác dụng ngược đến khả năng đọc đến khi trẻ tới
tuổi dậy thì. Điều này đúng như nhau với trẻ có chỉ số thông minh thấp, chỉ
số thông minh trung bình, và chỉ số thông minh cao.
5. Trong những trường học thuộc tầng
lớp trung lưu, các lớp tiểu học chú ý đến việc tạo ra một môi trường
phong phú về ngôn ngữ sẽ có nhiều học sinh hăng hái chia
sẻ ý kiến vói bạn đồng học hơn. Tuy nhiên, trong những lớp
ở bậc trung học thì môi trường phong phúvề ngôn ngữ sẽ không có một tác động
tương tự.
Trong giả thuyết thứ ba, có hai biến chứng:
tuổi của trẻ (từ 9-11 tuổi) và trình độ của khả năng đọc (bao gồm cả trẻ đọc chậm,
nhưng trẻ đọc nhanh và trung bình thì bị loại trừ). Không có trẻ 8 tuổi hay đọc
nhanh trên mức trung bình có mặt trong nghiên cứu này để kiểm tra giả thuyết
nghiên cứu ấy. Yếu tố tuổi và trình độ khả năng được loại trừ như những nhân tố
làm hỏng việc, nhưng người nghiên cứu sẽ không còn có thể khái quát hóa những
nhận định rút ra từ nghiên cứu này cho những trẻ đã được đưa ra ngoài giới hạn
mà biến chứng này đã đặt ra.
Chúng ta hẳn đã lưu ý rằng có sự giống nhau
khá đáng kể giữa biến điều tiết và biến chứng. Sự giống nhau này là kết quả của
hai lối xem xét đối với những nhân tố có thể ảnh hưởng đến tác động của các biến
độc lập lên các biến phụ thuộc. Điểm phân biệt là ở chỗ, biến điều tiết thì kiểm
soát các ảnh hưởng bên ngoài, và khảo sát nó theo cách nhằm miêu tả chính xác tác
động của nó; còn biến chứng, hay biến kiểm sóat thì chỉ đơn thuần làm giảm hay
miêu tả các ảnh hưởng bên ngoài mà không cung cấp bất cứ thông tin nào về quan
hệ của nó đối với các biến độc lập và biến phụ thuộc. Do vậy, trong khi biến điều
tiết thì có thể giới hạn, tinh lọc, làm phong phú thêm cho các khái quát hóa,
thì vai trò của biến chứng thường chỉ đơn thuần là hạn chế những giới hạn của
khái quát hóa. Do sự tương tự này, biến tố nào được dùng như một biến điều tiết
trong nghiên cứu thực nghiệm, cũng cũng có thể được dùng như một biến chứng, và
ngược lại. Một chiến lược rất có lý là xác định nhiều hết mức có thể các biến tố
bên ngoài có thể ảnh hưởng tới tác động của cách xử lý lên biến phụ thuộc; và rồi
một vài biến tố trong số đó có thể được làm thành biến điều tiết, vài biến khác
thành biến chứng, số khác có thể để lại không cần phải kiểm soát. Thoạt đầu, có
vẻ như vì biến điều tiết làm được mọi thứ mà biến chứng có thể làm, và hơn thế
nữa, nên chúng ta có thể dùng biến điều tiết càng thường xuyên càng tốt. Đây có
thể là một lời khuyên tốt, trừ một thực tế quan trọng: thường là rất khó đạt được
một số lượng đa dạng các chủ thể cần thiết để phân tích một nhân tố như một biến
điều tiết. Hơn thế nữa, có nhiều biến điều tiết có thể khiến một nghiên cứu
thành ra nặng nề. Tương tự, thoạt có vẻ như không nên có một nhân tố bên ngoài
nào đấy bị bỏ quên không có kiểm soát. Tuy vậy, một lần nữa cần nhắc lại, vấn đề
là khả năng hiện thực. Có rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng tới tác động của
cách xử lý đối với kết quả, thành ra hầu như không thể cô lập hay kiểm soát được
tất cả những nhân tố ấy.
Những thảo luận trên đây về biến chứng
đã tập trung vào những nghiên cứu thực nghiệm. Điều này khá hữu dụng để chỉ ra
quan hệ của biến chứng với biến điều tiết. Tuy nhiên, biến chứng cũng rất quan
trọng trong những nghiên cứu miêu tả. Chẳng hạn, hãy lưu ý tác động của
biến chứng được in nghiêng trong những giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu sau
đây:
1. Các
em học sinh lớp Năm trong những trường công ở Oregan thì học đọc
giỏi hơn là làm toán.
2. Một khảo
sát về các doanh nhân Hoa Kỳ cho thấy họ sẽ ủng hộ đánh thuế cao hơn nếu
họ được bảo đảm chắc chắn là chất lượng giáo dục sẽ thực sự được cải thiện.
3. Các
hiệu trưởng trả lời bảng khảo sát đều tỏ ra phản đối mạnh mẽ việc trừng
phạt thể xác.
4. Những học
sinh trường thực nghiệm sủ dụng cách tiếp cận ngôn ngữ như một tổng thể cho
thấy một xu hướng rất mạnh muốn chia sẻ ý kiến của mình với bạn đồng học.
Mỗi biến chứng được in
nghiêng trên đây đều cho thấy giới hạn được áp đặt bởi bối cảnh của nghiên cứu,
những ranh giới ấy sẽ hạn chế mức độ mà kết quả nghiên cứu miêu tả này có thể
khái quát được. Nếu bạn cho rằng nhiều biến chứng quá mơ hồ để có thể
sử dụng được, thì bạn đã nghĩ đúng! Sự hữu dụng của các biến này sẽ được nâng
cao với những định nghĩa vận hành (chủ đề của chương 4) hay với miêu tả định lượng
(chủ đề của chương 9).
Biến can thiệp là một khái niệm có tính giả
thiết, được tạo ra bởi cách xử lý vấn đề và nhằm để có một tác động lên những kết
quả có thể quan sát được. Cách xử lý đã tạo ra những biến can thiệp (một thứ
không nhìn thấy được, có lẽ chỉ có trong đầu người học) và những biến can thiệp
này tạo ra những kết quả có thể quan sát được. Những biến tố này can thiệp theo
nghĩa cách xử lý không tạo ra những kết quả có thể quan sát được một cách trực
tiếp, mà là thông qua một quá trình dàn xếp nội tại không nhìn thấy được, có
tính chất giả thiết, và dựa trên các khái niệm. Biến tố can thiệp này là chủ đề
cơ bản của nghiên cứu lý thuyết (sẽ được thảo luận trong chương 17).
Một ví dụ đơn giản là, người nghiên cứu có
thể thấy rằng sự mô phỏng máy tính khiến sinh viên làm tốt hơn các bài kiểm tra
môn khoa học. Thực ra thì bản thân sự mô phỏng máy tính gần như chắc chắn không
tạo ra sự tiến bộ nào trong việc làm bài. Nó chỉ gây ra những thay đổi bên
trong bản thân người sinh viên (chẳng hạn tăng cường động lực, chú ý hơn đến
nhiệm vụ, nhận thức tốt hơn ý nghĩa quan yếu của công việc, hay cái gì đó đại loại
như vậy), và chính những thay đổi bên trong này thực chất đã dẫn đến khác biệt
trong kết quả hoạt động. Việc xác định và khảo sát những biến can thiệp sẽ giúp
chúng ta hiểu tốt hơn về những nguyên tắc giáo dục. Thêm nữa, những biến
tố như vậy có thể hữu dụng vì nhiều lý do: chúng ta rất có thể tìm được những
cách không mấy tốn kém để tạo ra những biến tố can thiệp này thay vì dùng cách
mô phỏng máy tính khá đắt tiền.
Trong những ví dụ sau đây, giả thuyết được
trình bày (không có các biến điều tiết hay biến chứng), và sau đó một biến can
thiệp khả dĩ sẽ được trình bày trong ngoặc:
1. Học tập
nghiên cứu về Shakespeare sẽ dẫn đến sự trân trọng hơn đối với văn hóa phương
Tây (nhận thức về tầm quan trọng tương tự trong phạm vi kỷ nguyên Elizabethan
và văn hóa phương Tây hiện đại).
2. Việc điều
chỉnh cách xử sự sẽ dẫn đến những cách xử sự phi sáng tạo trong trẻ tiểu học (một
sự thúc đẩy mạnh mẽ việc tuân thủ nhằm tăng cường hiệu quả hết mức có thể).
Bây giờ các bạn hãy thử bắt tay vào thực
hành. Xác định các biến can thiệp trong những giả thuyết sau đây:
3. Vì ngôn
ngữ Logo đưa ra cơ hội cải thiện khả năng lập kế hoạch phát sinh từ những liên
hệ với thế giới siêu nhỏ, việc lập trình bằng ngôn ngữ Logo sẽ tạo ra các cải
thiện trong tư duy trật tự cao.
4. Trì
hoãn việc dạy đọc cho đến lớp 6 sẽ không tạo ra tác dụng ngược có hại cho khả
năng đọc trước khi đến tuổi dậy thì của trẻ.
5. Những lớp
học nhấn mạnh vào môi trường giàu ngôn từ sẽ có những học sinh hăng hái chia sẻ
ý kiến của mình với bạn đồng lứa
Đây là một số biến can thiệp cho các giả thuyết nêu trên:
1. Những
thông tin căn bản khiến việc hiểu biết về các nhân tố văn hóa phương Tây dễ
dàng hơn.
2. Xu hướng
kềm chế làm những điều không đạt được sự ủng hộ của bên ngoài
3. Khả
năng lập kế hoạch được cải thiện nảy sinh từ sự liên hệ với thế giới siêu nhỏ
đã được ngôn ngữ lập trình đưa ra.
4. Sự năng
động, động cơ nội tại, thay thế sự củng cố hay ủng hộ ngọai tại.
5. Trong
trường hợp này, không có gì là điều đã được nêu ra. Người đọc, hay người
nghiên cứu có thể xây dựng một biến can thiệp thông qua những quá trình như lý
giải về những sự kiện nảy sinh trong nghiên cứu và phản ánh những thông tin lý
thuyết trong việc tổng thuật. Qua những lý giải ấy, sự kích thích của
ngôn ngữ và quá trình xã hội hóa có thể nổi lên như những biến can thiệp.
Trong những ví dụ này, biến can thiệp đã được
gắn thêm vào tuyên bố tối thiểu khả dĩ của giả thuyết. Chúng ta làm vậy để
đơn giản hóa vấn đề. Trong thực tế, biến điều tiết nên tính đến tất cả
các biến tố trong giả thuyết nghiên cứu.
Không như những biến tố khác, biến can thiệp
thường không được nêu ra như một phần của giả thuyết. Thay vì vậy, nó
được trình bày trong phần cao nhất của mục tổng thuật (trước khi nêu giả thuyết
nghiên cứu), như là một cơ sở lý luận cụ thể đàng sau cái lý do khiến giả thuyết
được trình bày dưới hình thức như vậy.
Một biến tố ngoại vi là một nhân tố tạo ra
những tác động không kiểm soát được, không dự đoán được trên biến phụ thuộc. Biến
ngoại vi làm kết quả nghiên cứu yếu đi vì nó đưa sự mơ hồ vào quá trình nghiên
cứu. Tùy theo mức độ không thể kiểm soát, những nhân tố này đem đến sự
thiếu chắc chắn cho những kết luận mà chúng ta rút ra từ cuộc nghiên cứu.
Những mối nguy đối với tính xác đáng nội tại và ngoại tại, sẽ được thảo
luận trong chương 10, là những biến ngoại vi, và toàn bộ mục đích của các chiến
lược được thảo luận trong những chương này là làm giảm nhẹ tác động của những
biến ngoại vi như vậy. Kết quả của một nghiên cứu được tăng cường cùng với mức
độ kiểm soát ta có thể thực hiện với các biến ngoại vi. Một lý do tốt cho việc
tái tạo nghiên cứu (sẽ được thảo luận sau trong chương này) là để làm giảm khả
năng kết luận bị yếu đi do những yếu tố ngoại lai.
Bảng 2.5 tổng hợp những đặc điểm chính của
mỗi loại biến tố nghiên cứu. Cuộc thảo luận về các biến tố của chúng ta đã tập
trung phần lớn vào nghiên cứu thực nghiệm. Đó là vì chỉ trong nghiên cứu thực
nghiệm chúng ta mới có nhiều khả năng có tất cả mọi loại biến tố trong
một giả thuyết. Chúng ta có thể có một ấn tượng sai lầm rằng phần lớn nghiên cứu
giáo dục là nghiên cứu thực nghiệm. Thật ra, chỉ khoảng 10% nghiên cứu giáo dục
được công bố kết quả, là những nghiên cứu thực nghiệm. Số còn lại hoặc là
nghiên cứu miêu tả, nghiên cứu định tính, hay nghiên cứu tương liên. Bảng 2.1 miêu
tả vắn tắt các kiểu nghiên cứu khác nhau và cho biết nó được bàn đến ở chương
nào trong cuốn sách này. Đồng thời, các loại biến tố được nêu trong Bảng này
không loại trừ lẫn nhau; chẳng hạn một nghiên cứu định lượng hay một nghiên cứu
thực nghiệm đều có thể vận dụng một số phương pháp định lượng, và phân tích tổng
hợp thì thường kết hợp kết quả của hàng loạt nghiên cứu thực nghiệm.
Phần lớn các công trình nghiên cứu không chỉ
chứa một loại biến tố. Bất cứ biến tố nào hình thành từ việc phân tích một vấn
đề nào đấy đều cần được xác định rõ ràng và trình bày một cách phù hợp trong giả
thuyết hay câu hỏi nghiên cứu ngắn gọn. Những chương sau đây sẽ miêu tả cách
chúng ta định nghĩa các biến tố này qua sự vận hành của nó, và phối hợp nó như thế
nào trong một nghiên cứu nhằm đạt hiệu quả cao.
Bảng 2.5. Tổng hợp về các Biến tố Nghiên cứu
|
|||
Biến tố
|
Định nghĩa
|
Ghi nhớ
|
Các thuật ngữ khác
|
Biến phụ thuộc
(dependent variables)
|
Những gì mong đợi sẽ đạt được từ kết quả
của một cách xử lý nhất định
|
Những biến tố như vậy phụ thuộc theo
nghĩa nó phụ thuộc vào cách xử lý mà chúng ta đang nghiên cứu
|
Biến tố kết quả Tác động
Kết quả
Biến tiêu chí
(trong những nghiên cứu dự đoán)
|
Biến độc lập
(independent variables)
|
Cách xử lý hay những điều kiện mà chúng
ta mong đợi là nó sẽ tạo ra một kết quả nhất định
|
Các biến tố độc lập là độc lập theo nghĩa
nó không phụ thuộc vào biến tố kết quả
|
Cách xử lý
Quy trình thực nghiệm
Nguyên do
Biến tố dự đoán (trong nghiên cứu tương
liên)
|
Biến điều tiết
(Moderator variables)
|
Những đặc điểm
ảnh hưởng tới tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc
|
Chữ “điều tiết”
có thể có nghĩa “điều chỉnh”, khi một mô hình thay đổi nó có thể điều
chỉnh tác động của một cái gì khác.
|
Tương tác
Nhân tố tương tác
|
Biến chứng
(hoặc cũng có
thể dịch: biến kiểm soát)
(Control
variables)
|
Những đặc điểm
được kiểm soát bởi người làm thực nghiệm nhằm làm giảm bất cứ tác động nào
nhân tố này có thể có (nếu không bị kiểm soát) đối với sự diễn dịch kết quả của
nghiên cứu.
|
Toàn bộ mục
đích của biến tố này là nhằm kiểm soát những ảnh hưởng ngoại lai.
|
Biến tố bối cảnh Giới hạn
Hạn chế
|
Biến can thiệp
(Intervening variables)
|
Nhân tố có
tính giả thuyết, được tạo ra bởi biến độc lập và có một tác động nào đó lên
biến phụ thuộc.
|
Biến tố này
can thiệp theo nghĩa nó xuất hiện trong thời gian nguyên nhân can thiệp vào kết
quả.
|
Nguyên nhân tiềm tàng
Xây dựng tâm lý
|
Biến ngoại vi
(Extraneous variables)
|
Những nhân tố
tạo ra các tác động không thể kiểm soát và dự đoán trước lên biến phụ thuộc.
|
Biến tố này
là một nhân tố bên ngoài, được thêm vào, nằm ngoài những gì đang được nghiên
cứu và do vậy có thể làm nhiễu, trừ phi nó được kiểm soát.
|
Nhân tố gây nhiễu
Mối nguy cơ đối với tính xác đáng nội tại
và ngoại tại
|
1.
Khảo sát những giả thuyết nghiên cứu sau đây và xác định từng biến tố được yêu
cầu dưới đây:
Học sinh môn sinh học trong các trường về mặt chính thức mà nói thì
sẽ dùng cách tìm hiểu thông qua giải quyết vấn đề để giải quyết những vấn đề về
di truyền học, nhưng trong những trường cụ thể họ sẽ dùng chiến lược học thuộc
lòng để giải quyết cũng cùng một vấn đề như thế.
Hãy xác định các biến tố sau đây:
Biến phụ thuộc
Biến chứng
1.
Khảo sát câu hỏi nghiên cứu sau đây và xác định từng biến tố được
yêu cầu dưới đây:
Những học sinh K-3 dùng phương pháp ngôn ngữ tổng thể để học đọc sẽ
khác biệt như thế nào so với những em dùng cách tiếp cận ngữ âm học như một chiến
lược toàn diện để học đọc?
Hãy xác định các biến tố sau đây:
Biến độc lập
Biến phụ thuộc
Biến điều tiết
Biến chứng
1.
Khảo sát giả thuyết sau đây và xác định từng biến tố được yêu cầu
dưới đây:
Học sinh trung học đã học tiếng Latin được hai năm sẽ phát triển kỹ
năng từ vựng tiếng Anh tốt hơn những em không học tiếng Latin. Sự khác biệt này
sẽ xuất hiện cả trong những lớp tiếng Anh nâng cao lẫn trong những lớp thông
thường. Sự khác biệt này xuất hiện là do tăng cường khả năng tách một từ ra
thành các bộ phận.
Hãy xác định các biến tố sau đây:
Biến độc lập
Biến phụ thuộc
Biến điều tiết
Biến chứng
Biến can thiệp
Nhiều bạn đọc của cuốn sách này sẽ xây dựng
những dự án nghiên cứu và tự mình thực hiện việc nghiên cứu. Điều quan trọng cần
cân nhắc đối với họ là lựa chọn và khám phá vấn đề cần nghiên cứu. Những hướng
dẫn sau đây sẽ hữu ích cho họ:
Chúng ta không nhất thiết phải phát
minh ra các vấn đề trong giáo dục. Giáo dục lúc nào cũng đầy dẫy vấn đề phải
giải quyết. Hãy chọn một vấn đề mà bạn quan tâm, trong phạm vi khả năng và nguồn
lực mà bạn có. Để chọn vấn đề nghiên cứu, tập trung sự chú ý thích đáng vào những
câu hỏi và vấn đề đang tồn tại và có thể giải quyết được. Theo những hướng dẫn
trong chương này để trình bày và làm rõ vấn đề nào có ý nghĩa, đáng quan tâm,
có thể làm được, và quan trọng đối với bạn.
1.
Trình bày câu hỏi nghiên cứu hay giả thuyết nghiên cứu ngay từ đầu,
nhưng hãy sẵn sàng tư thế để sửa đổi, điều chỉnh, mở rộng nó khi bạn đọc thêm
nhiều tài liệu và khi những quan sát ban đầu cho bạn thêm những thông tin thích
hợp với chủ đề ấy. Tiêu điểm ban đầu này sẽ giúp bạn hướng sự chú ý tới
những vấn đề cần nghiên cứu một cách có hiệu quả hơn.
1.
Dùng những nguồn tài liệu thư viện và tham khảo được thảo luận ở
chương 3 để tìm hiểu xem về vấn đề này người ta đã nghiên cứu những gì. Việc
dùng những tư liệu tham khảo này sẽ giúp bạn phát hiện thêm những biến tố khác
cũng như biết rõ những người nghiên cứu khác đã định nghĩa và đo lường các biến
tố này như thế nào, họ đã thực hiện nghiên cứu ra sao, và họ đã sắp xếp những ý
tưởng và phương pháp của họ cho phù hợp với một bộ khung lý thuyết như thế nào.
1.
Thường thì cũng đáng công tái hiện một nghiên cứu đã thực hiện trước
đó. Như những chương sau này sẽ cho thấy, tái lập các nghiên cứu không chỉ nhằm
kiểm tra sự xác đáng của những nghiên cứu cùng loại đã được thực hiện, mà còn dẫn
đến sự tinh lọc và mở rộng các kết luận khái quát. Một nghiên cứu tái tạo có thể
gần như là sao lại nghiên cứu cũ, hoặc có thể có điều chỉnh, như những hướng dẫn
bạn sẽ thấy dưới đây.
2.
Cân nhắc việc điều chỉnh sửa chữa một nghiên cứu đã thực hiện trước
đây bằng cách sử dụng những biến kiểm chứng mới, hay biến điều tiết, hay những
định nghĩa vận hành của bất kỳ biến tố nào. Nếu có thể được, hãy thực hiện một
nghiên cứu thí điểm trước khi thực hiện toàn bộ việc nghiên cứu. Nghiên cứu thí
điểm thường giúp nhà nghiên cứu tinh lọc lại, làm rõ và thử những biến tố, quy
trình đánh giá, và những phương pháp nghiên cứu khác.
Chiến lược để thu thập ý tưởng nghiên cứu từ
những công trình nghiên cứu đang có có thể tóm tắt trong Bảng 2.6. Theo những
hướng dẫn này và vận dụng những chiến lược được thảo luận trong cả cuốn sách
này, bạn sẽ có thể thực hiện được một đề tài nghiên cứu có hiệu quả. Danh sách
dưới đây đưa ra những hướng dẫn nhằm khơi gợi suy nghĩ của bạn, chứ không phải
những bước phải theo như một kết quả tuyến tính. Chiến lược cơ bản vẫn là xây dựng
một kế hoạch hiệu quả, sẵn sàng điều chỉnh, thích nghi, và thực hiện nó một
cách tốt đẹp.
Bảng 2.6. Làm cách nào thu thập ý tưởng nghiên cứu từ những công
trình nghiên cứu khác
|
||
Chiến lược
|
Bình luận
|
Chương
|
Tái tạo những nghiên cứu trước
|
||
1 . Tái tạo trực tiếp
|
Dùng cách nhân bản đơn giản để xem
nghiên cứu trước có thực sự tạo ra các kết quả như đã được trình bày hay
không
|
|
2. Tái tạo một nghiên cứu cũ trong một bối
cảnh thời gian mới
|
Tăng cường tính xác đáng ngoại tại
thông qua kiểm soát nhân tố lịch sử
|
15
|
3. Tái tạo một nghiên cứu cũ trong một bối
cảnh nơi chốn mới
|
Tăng cường tính xác đáng ngoại tại
thông qua kiểm soát nhân tố bối cảnh không gian nơi sự kiện, vấn đề cần
nghiên cứu diễn ra
|
15
|
4. Tái tạo một nghiên cứu cũ với những chủ
thể mới
|
Tăng cường tính xác đáng ngoại tại
thông qua kiểm soát nhân tố chủ thể của hiện tượng, hành vi cần nghiên cứu
|
15
|
Thay đổi một nghiên cứu
|
||
5. Loại bỏ những nhân tố gây nhiễu quá
trình
|
Kiểm soát những mối nguy đối với tính xác
đáng nội tại
|
10
|
6. Bổ sung thêm các biến chứng
|
Kiểm soát những mối nguy đối với tính xác
đáng nội tại
|
2, 17
|
7. Tăng cường hoặc làm giảm cách xử lý
|
Cách xử lý có thể không hiệu quả vì
nó quá yếu, hoặc cũng có thể hữu ích nếu ta biết rằng liệu cách xử lý yếu hơn
như thế thì kết quả có tương tự hay không
|
17
|
8. Dùng một quy trình tập hợp dữ liệu
tinh tế hơn
|
Quy trình thu thập dữ liệu không đủ vững
có thể sẽ để sót những ảnh hưởng/tác động thực sự
|
5-9
|
9. Dùng những định nghĩa vận hành mới của
một hay nhiều biến tố nghiên cứu
|
Nhiều định nghĩa vận hành sẽ tăng cường
tính xác đáng ngoại tại
|
4
|
10. Bổ sung thêm một hay nhiều biến điều
tiết
|
Kiểm soát tính xác đáng ngoại tại bằng
cách xác định tương tác giữa các biến tố, cũng như tăng cường tính xác đáng nội
tại
|
2, 15, 17
|
11. Dùng một thiết kế nghiên cứu khác
|
Chẳng hạn, thay đổi từ thực nghiệm sang
bán thực nghiệm hay qua nghiên cứu định tính
|
9, 11, 12, 13
|
12. Dùng thêm những chủ thể khác
|
Loại trừ những biến tố ngẫu nhiên, tình cờ
|
13
|
13. Thay đổi khung thời gian của việc thu
thập dữ liệu
|
Ví dụ, dùng những bài kiểm tra được thực
hiện trễ
|
11, 12
|
14. Bổ sung những mức độ xử lý khác hay
những biến tố khác
|
Ví dụ, thay vì đối chiếu những trường hợp
có xử lý với những trường hợp không xử lý, có thể bổ sung những mức độ trung
gian của những cách xử lý nhẹ hay những cách xử lý khác
|
17
|
15. Thay đổi nhóm chứng
|
Ví dụ, thay vì không làm gì cả, thì
hãy làm một hành động thay đổi
|
11, 12, 17
|
16. Thực hiện phân tích tổng hợp
|
Kết hợp kết quả nghiên cứu của nhiều
công trình khác nhau để khái quát hóa kết quả một cách thận trọng
|
16
|
Lấy những ý tưởng nghiên cứu ở đâu
|
||
17. Theo đề nghị của tác giả về những
nghiên cứu tiếp theo
|
Những đề nghị này thường xuất hiện
cuối bài (đôi khi chỉ là những gợi ý ngầm ẩn hơn là tuyên bố rõ ràng)
|
|
18. Kết hợp thông tin từ nhiều nguồn, nhiều
công trình khác nhau
|
Ví dụ, bằng cách kết hợp những ý tưởng từ
hai công trình nghiên cứu khác, bạn có thể tạo ra một nghiên cứu nguyên thủy.
|
|
19. Dùng suy luận loại suy
|
Tìm những sự giống nhau giữa nghiên cứu
này và những kiến thức khác của chính bạn
|
|
20. Liên hệ những nghiên cứu này với trải
nghiệm của chính bạn
|
Thí dụ, thực hiện một biến tố ứng dụng của
một nghiên cứu lý thuyết
|
17
|
21. Tiếp xúc, trao đổi với tác giả của những
công trình nghiên cứu hay
|
Thí dụ, viết thư trực tiếp hay dùng những
phương tiện giao tiếp khác
|
LIÊN KẾT TẤT CẢ LẠI VỚI NHAU
Như chúng ta đã thấy trong chương đầu,
Anderson, nhà giáo dục nhân hậu của chúng ta, quan tâm đến việc cải thiện thái
độ của học trò đối với đời sống của loài vật. Ông làm nhiều hình thức nghiên cứu,
như nghiên cứu mô tả, nghiên cứu định tính, nghiên cứu tương quan, những thứ sẽ
được miêu tả trong những chương tiếp theo. Chương này sẽ tập trung vào một
nghiên cứu thực nghiệm, vì nó bao gồm nhiều biến tố và dễ diễn giải hơn.
Thái độ cuả trẻ em đối với loài vật là biến
tố kết quả mà ông quan tâm. Và nó trở thành biến phụ thuộc (hay tiêu chí) trong
nghiên cứu thực nghiệm của ông. Thoạt tiên lúc bắt đầu ông không có ý tưởng gì
rõ ràng về việc mình sẽ đạt được mục tiêu bằng cách nào. Tuy vậy, ông cũng nêu
ra một giả thuyết sơ bộ:
· Chương
trình học mà tôi sắp xây dựng sẽ dẫn tới cải thiện thái độ của người học đối với
loài vật
Trong giả thuyết sơ bộ này, biến phụ thuộc
(hay xử lý) là chương trình mà ông sẽ xây dựng. Ông dành thời
gian tìm tài liệu tham khảo trong thư viện, nói chuyện với đồng nghiệp, và dùng
trí tưởng tượng để hình dung một chương trình mà ông có thể trình bày với trẻ
em để giúp trẻ cải tiện thái độ đối với loài vật. Đồng thời, ông cố gắng tìm những
cách có iệu quả để đo lường thái độ của trẻ với loài vật. Sau khi làm vài
nghiên cứu miêu tả và định tính ban đầu, rút cuộc ông đã xây dựng nên Chương
trình Giáo dục về Đời sống Loài vật, dựa trên những nguyên tắc lý thuyết cơ bản
về thuyết phục sự bất hòa để tạo ra sự thay đổi trong thái độ. Khi ông
quyết định thử nghiệm chương trình này, nó trở thành biến phụ thuộc trong
nghiên cứu của ông.
Vì ông lên kế hoạch sẽ dùng chương trình
này với học sinh lớp bốn, năm, và sáu, cấp lớp của trẻ trở thành biến kiểm soát
của Anderson. Ông cũng nhận ra rằng đứa trẻ nào có nhiều thú nuôi trong nhà thì
sẽ phản ứng khác với những đứa khác, nên ông quyết định khảo sát khả năng
này trong công trình nghiên cứu. Do vậy, yếu tố “làm chủ thú nuôi trong nhà”trở
thành biến điều tiết. Biến can thiệp của ông là sự bất hòa được thuyết phục-
nguyên tắc ngầm ẩn bên trong của Chương trình Giáo dục Đời sống Loài vật.
Giờ đây, giả thuyết của Anderson có thể phát biểu như sau:
· Trong số
trẻ em lớp bốn và lớp sáu, Chương trình Giáo dục Đời sống Loài vật sẽ dẫn đến cải
thiện thái độ đối với loài vật. Chương trình này sẽ có tác dụng lớn hơn đối với
những em không có thú nuôi trong nhà hơn là những em có nhiều thú nuôi (Tác động
này sẽ tạo ra kết quả do sự bất hòa được thuyết phục mà Chương trình giáo dục
này tạo ra và điều đó dẫn đến sự thay đổi thái độ của học sinh).
Những chương tiếp theo sẽ mô tả Anderson thực
hiện nghiên cứu thực nghiệm của mình như thế nào.
Bằng cách nêu lên các biến tố nghiên cứu và
giả thuyết dưới dạng sơ bộ như vậy vào lúc bắt đầu thực hiện đề tài nghiên cứu,
Anderson có thể dùng các biến tố và giả thuyết ấy để định hướng việc lựa chọn
công cụ đo lường cho thiết kế nghiên cứu. Hình thức ban đầu này có thể sẽ thay
đổi và được điều chỉnh nhiều lần khi ông gặp phải những vấn đề mới hay nảy sinh
ý tưởng mới. Sản phẩm cuối cùng sẽ hướng dẫn ông thực hiện việc thực nghiệm,
phân tích kết quả, và rút ra kết luận.
TÓM TẮT
Bước đầu tiên của quá trình nghiên cứu là
xác định và làm rõ vấn đề. Chúng ta có thể bắt đầu làm điều này bằng cách trình
bày các biến tố trong một giả thuyết hay câu hỏi nghiên cứu rõ ràng. Câu hỏi
nghiên cứu là câu hỏi về bản chất của các biến tố hay khái niệm hoặc về mối
quan hệ giữa hai hay nhiều biến tố. Giả thuyết nghiên cứu trình bày
câu trả lời được mong đợi cho câu hỏi ấy. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết
nghiên cứu sẽ quyết định trọng tâm, cấu trúc, và cách tổ chức việc thu thập,
phân tích, diễn dịch những tư liệu mà người nghiên cứu tập hợp được, cũng như
giúp xây dựng lý thuyết về các biến tố trong đề tài nghiên cứu ấy.
Trong nhiều công trình nghiên cứu giáo dục,
người nghiên cứu sẽ quan tâm tới việc đo lường hay miêu tả kết quả. Những
nghiên cứu mô tả thì tập trung vào việc đo lường, miêu tả, và diễn dịch bối cảnh
cũng như các biến tố kết quả. Trong những nghiên cứu thực nghiệm, người nghiên
cứu không chỉ quan tâm đến biến tố kết quả (biến phụ thuộc), mà còn quan tâm đến
bản chất nguyên nhân của mối quan hệ giữa các biến tố. Trong những nghiên cứu
thực nghiệm, kết quả cũng được nói tới như là biến phụ thuộc hay
biến tiêu chí, còn cách xử lý thì được coi là các biến độc lập.
Những nghiên cứu tương quan cũng tạo điều
kiện cho ngừơi nghiên cứu khảo sát mối quan hệ giữa các biến tố. Tuy nhiên,
trong trường hợp này người nghiên cứu chỉ miêu tả bản chất của các mối quan hệ
mà không nhận định gì về việc biến tố này có thể là nguyên nhân gây ra biến tố
kia.
Biến điều tiết là những nhân tố ảnh hưởng tới tác động của
biến độc lập lên biến phụ thuộc. Biến chứng, hay biến kiểm soát, miêu
tả những nhân tố bên ngoài và đem lại một phương tiện giúp làm giảm tác động của
những nhân tố ngoại lai trong nghiên cứu. Trong tất cả các nghiên cứu, biến kiểm
soát giúp xác định mức độ khái quát hóa có thể rút ra từ kết quả nghiên cứu, và
trong nhiều công trình nghiên cứu, nó giúp người nghiên cứu hay người đọc hiểu
rõ hơn bản chất của mối quan hệ giữa các biến tố. Biến can thiệp
là một khái niệm có tính giả thiết nhằm làm trung hòa giữa biến độc lập và biến
phụ thuộc.
Bằng cách hiểu rõ và định nghĩa những biến
tố này, người nghiên cứu có thể tăng cường chất lượng công trình của mình. Thêm
vào đó, hiểu biết thấu đáo về những biến tố này và sự tương tác của nó sẽ giúp
những ngừoi sử dụng kết quả nghiên cứu có thể dùng những kết quả của người khác
một cách hiệu quả hơn, và giao tiếp với nhau một cách dễ dàng hơn.
Tiếp theo là gì?
Những chương tiếp theo sẽ tập trung vào những
cách thức để khám phá, định nghĩa và đo lường các biến tố nghiên cứu. Cuốn sách
này cũng sẽ tập trung vào cách thiết kế và thực hiện nghiên cứu, tức cách thu
thập dữ liệu và kiểm định giả thuyết, cách phân tích các kết quả nghiên cứu, và
cách đánh giá chất lượng của kết quả nghiên cứu.
Trong lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách
này, chương này xuất hiện gần cuối sách. Lý do chính của việc đưa nó ra phần đầu
sách là nhằm giúp người đọc bắt đầu thực hiện công trình nghiên cứu của mình. Nếu
bạn cần chọn một đề tài nghiên cứu và bắt đầu lên kế hoạch cho một dự án nghiên
cứu, đây là một số chiến lược bạn có thể vận dụng ngay:
1. Bạn có
thể chọn một vấn đề mà mình quan tâm, tìm một kết quả nghiên cứu mà người ta đã
thực hiện trước đó, và trực tiếp tái hiện lại nghiên cứu này. Như những chương
sau cho thấy, việc tái lập lại nghiên cứu là một phần quan trọng của quy trình
nghiên cứu. Chiến lược cho việc tái lập nghiên cứu này sẽ được thảo luận sau.
2. Bạn có
thể tìm một nghiên cứu đã được thực hiện, tái lập nó qua việc sử dụng những định
nghĩa vận hành chức năng của ít nhất một vài biến tố trong nghiên cứu. Chiến lược
cho việc định nghĩa vận hành chức năng sẽ được thảo luận trong chương 4.
3. Bạn có
thể tìm một nghiên cứu đã được thực hiện, tái lập nó qua việc sử dụng thêm biến
điều tiết hay biến kiểm soát. Như chương 15 sẽ cho thấy, tái lập nghiên cứu với
biến điều tiết hay biến kiểm soát khác có một vai trò quan trọng trong việc xác
định xem kết quả nghiên cứu này có thể khái quát hóa đến mức độ nào.
4. Bạn có
thể tìm một nghiên cứu đang có và xây dựng một cách thức khác để kiểm định cùng
một giả thuyết.
5. Bạn có
thể chọn một vấn đề, phân tích nó như đã được thảo luận trong chương này, và tạo
ra một công trình nghiên cứu mới của chính bạn.
6. Bạn có
thể vận dụng kết hợp cả năm chiến lược nêu trên.
Để thực sự thực hiện một nghiên cứu, bạn sẽ
cần một số thông tin nhất định sẽ được trình bày sau trong cuốn sách này. Giờ
đây, bạn có thể chọn lấy một đề tài, xác định xem các biến tố là gì, và bắt đầu
nghĩ về những vấn đề mà nhiều khả năng là bạn phải đương đầu trong việc thực hiện
nghiên cứu. Tuy vậy, cần lưu ý là, như bạn sẽ thấy trong những chương
sau, khi bạn bắt đầu đọc tài liệu tham khảo, rất có thể bạn sẽ đổi ý. Chuyện đó
không thành vấn đề. Điều quan trọng là bạn rút cục đã xây dựng được một kế hoạch
hợp lý để thực hiện.
Chương 17 kết hợp các phương pháp và nguyên
tắc trong cả cuốn sách này, chương 19 miêu tả những chiến lược phù hợp để thực
hiện và viết một đề tài nghiên cứu chính thức. Nếu bạn đọc sách này để phục vụ
việc học một môn, rồi sau đó sẽ viết một báo cáo khoa học cho môn kế tiếp, thì
bạn nên dùng những chương này thay cho danh sách trên kia – như những hướng dẫn
cơ bản để thực hiện đề tài nghiên cứu.
Lưu ý: Một số nghiên cứu rất hay, nhưng có
thể phải dùng đến những phương pháp nghiên cứu tiên tiến không được trình bày
trong cuốn sách này. Bởi vậy, có khả năng bạn sẽ tìm ra một giả thuyết và vài
tuần sau sẽ khám phá ra rằng bạn không có khả năng kiểm định giả thuyết ấy với
những phương pháp mà cuốn sách này đề cập tới. Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề
này là hỏi ý kiến giáo sư và điều chỉnh giả thuyết của bạn khi bạn đi tới những
chương phù hợp trong sách này.
GỢI Ý SUY NGHĨ
1. Hoàn tất câu sau đây bằng cách trả lời
những câu hỏi trong ngoặc: "Biến phụ thuộc... (làm gì?) (với cái gì hay với
ai?) (Khi nào?) (Ở đâu?) (Như thế nào?) (Tại sao?)"
2. Hoàn tất câu sau đây bằng cách trả lời
những câu hỏi trong ngoặc: "Biến độc lập... (làm gì?) (với cái gì hay với
ai?) (Khi nào?) (Ở đâu?) (Như thế nào?) (Tại sao?)"
3. Hoàn tất câu sau đây bằng cách trả lời
những câu hỏi trong ngoặc: "Biến điều tiết... (làm gì?) (với cái gì hay với
ai?) (Khi nào?) (Ở đâu?) (Như thế nào?) (Tại sao?)"
4. Hoàn tất câu sau đây bằng cách trả
lời những câu hỏi trong ngoặc: "Biến kiểm soát... (làm gì?) (với cái gì
hay với ai?) (Khi nào?) (Ở đâu?) (Như thế nào?) (Tại sao?)"
5. Hoàn tất câu sau đây bằng cách trả
lời những câu hỏi trong ngoặc: "Giả thuyết nghiên cứu... (làm gì?) (với
cái gì hay với ai?) (Khi nào?) (Ở đâu?) (Như thế nào?) (Tại sao?)"
6. Hoàn tất câu sau đây bằng cách trả lời
những câu hỏi trong ngoặc: "Dự đoán nghiên cứu ... (làm gì?) (với cái gì
hay với ai?) (Khi nào?) (Ở đâu?) (Như thế nào?) (Tại sao?)"
THƯ MỤC THAM KHẢO
Martin, D. V. (1991). Doing psychology
experiments (3rd ed.) Monterey, CA: Brooks/Cole. Chương 4 đưa ra những hướng
dẫn rất tốt về việc chọn các biến tố cho nghiên cứu.
Smith, M. L., & Glass, G. V. (1987).
Research and evaluation in education and the social sciences. Englewood
Cliffs, NJ: Prentice-Hall. Cuốn sách mới này minh họa cho những quan điểm khác
nhau về quá trình nghiên cứu.
Tuckman, B. W. (1988). Conducting
educational research . (3rd ed.) New York: Harcourt Brace Jovanovich.
Chương 4 thảo luận việc xây dựng giả thuyết nghiên cứu, và chương 5 tập trung
vào việc xác định và dán nhãn cho các biến tố.
l. Biến độc lập: sự đánh giá cao văn hóa
phương Tây. Biến phụ thuộc: việc học Shakespeare.
2. Biến độc lập: cách xử sự thiếu sáng tạo.
Biến phụ thuộc: sự điều chỉnh cách xử sự.
3. Biến độc lập: kỹ năng tư duy có trật tự
cao. Biến phụ thuộc: lập trình bằng ngôn ngữ Logo.
4. Biến độc lập: khả năng đọc trong tuổi dậy
thì. Biến phụ thuộc: trì hoãn việc dạy đọc cho đến lớp 6.
5. Biến độc lập: sự nhiệt tình muốn chia sẻ
kiến thức với bạn học. Biến phụ thuộc: môi trường ngôn ngữ phong phú.
1. Biến độc lập: phương pháp học (học thuộc
lòng hay khám phá). Biến kiểm soát: học sinh môn Sinh ở trung học.
2. Biến phụ thuộc: phương pháp đọc. Biến độc
lập: cách học toàn diện. Biến điều tiết: (không được trình bày). Biến kiểm
soát: học sinh K-3. Biến can thiệp: (không được trình bày).
3. Biến phụ thuộc: việc học tiếng latin (so
với không học). Biến độc lập: kỹ năng về từ vựng. Biến điều tiết: việc xếp lớp
học tiếng Anh (lớp thông thường hay nâng cao). Biến kiểm soát: học sinh trung học.
Biến can thiệp: tăng khả năng tách một từ thành ra các thành tố tạo nên nó.
PHÂN TÍCH BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Báo cáo nghiên cứu mẫu trong Phụ lục C là về
việc mô phỏng máy tính nhằm kích thích các giải quyết một vấn đề khoa học. Nó
minh chứng cho lý thuyết cho rằng hướng dẫn việc sử dụng mô phỏng máy tính sẽ
đem lại cơ hội cho học sinh thực tập kỹ năng tư duy và tăng khả năng
thành công khi dùng những kỹ năng này. Thử trả lời những câu hỏi sau:
1. Giả thuyết nghiên cứu của đề tài này là
gì?
2. Biến phụ thuộc của đề tài này là gì?
3. Biến độc lập của đề tài này là gì?
4. Biến điều tiết của đề tài này là gì?
5. Biến chứng, hay biến kiểm soát của đề
tài này là gì?
6. Biến can thiệp của đề tài này là gì?
TRẢ LỜI:
1.
Cách sử dụng có hướng dẫn việc mô phỏng máy tính sẽ giúp học sinh
xây dựng kỹ năng giải quyết vấn đề ở một mức độ lớn hơn so với những em mô phỏng
máy tính mà không được hướng dẫn hay những em dùng cách tiếp cận khác để đạt được
cùng một mục tiêu. (Giả thuyết này đã được nêu vắn tắt ở trang… và làm rõ ở
trang…)
2.
Biến phụ thuộc là cách học sinh học những tài liệu giảng dạy (Cách
sử dụng có hướng dẫn việc mô phỏng máy tính so với không được hướng dẫn, hoặc
so với cách tiếp cận khác)
3.
Biến phụ thuộc là khả năng giải quyết vấn đề
4.
Biến điều tiết là giới tính của học sinh
5.
Biến kiểm soát là loại học sinh trong nghiên cứu. Vấn đề nội dung
cũng có thể được xem như biến kiểm soát
6.
Biến can thiệp là thực tiễn sử dụng các kỹ năng tư duy này một cách
hiệu quả
Thanks!
Trả lờiXóaHọc đàn guitar cơ bản