Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

10 điểm mới cơ bản của Luật đấu thầu năm 2013



10 điểm mới cơ bản của Luật đấu thầu năm 2013

Sáng 12/12/2013, tại Văn phòng Chính phủ, ông Đào Quang Thu – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố một số nội dung mới, cơ bản liên quan đến Luật đấu thầu 2013.


Theo đó, Luật đấu thầu năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014. Luật này gồm 13 chương với 96 điều được xây dựng trên cơ sở sửa đổi toàn diện Luật đấu thầu năm 2005, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009.
Cụ thể, Luật đấu thầu năm 2013 có những 10 điểm mới căn bản.
Thứ nhất, Luật đấu thầu năm 2013 ưu tiên phát triển nguồn lực, tạo cơ hội cho nhà thầu trong nước trúng thầu và tạo công ăn việc làm cho lao động trong nước, ưu đãi đối với nhà thầu và hàng hóa sản xuất trong nước nhằm thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị về “Khuyến khích người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đồng thời từng bước giúp nhà thầu Việt Nam tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tự chủ, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh để tiến tới trở thành nhà thầu độc lập thực hiện các gói thầu lớn, công nghệ cao, phức tạp không chỉ tại thị trường Việt Nam mà cả trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, Luật đấu thầu năm 2013 đã sửa đổi một số quy định hiện hành nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đấu thầu theo tinh thần Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 2/6/2010 và Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 27/12/2010 của Chính phủ, đồng thời quy định cụ thể hơn về các quy trình lựa chọn nhà thầu đối với từng trường hợp cụ thể.
Thứ ba, Luật quy định rõ phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu theo từng lĩnh vực cụ thể. Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung một số phương pháp mới trong đánh giá hồ sơ dự thầu nhằm đa dạng hóa phương pháp đánh giá để phù hợp với từng loại hình và quy mô của gói thầu, đồng thời khắc phục tình trạng bỏ thầu giá thấp nhưng không đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu.
Thứ tư, Luật quy định hình thức mua sắm tập trung để áp dụng rộng rãi trong công tác đấu thầu. Theo hình thức này, thay vì tổ chức mua sắm ở hàng trăm cơ quan khác nhau thì cơ quan mua sắp tập trung sẽ chịu trách nhiệm tổ chức mua sắm chuyên nghiệp một lần. Hình thức này không chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động mua sắm mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức mua sắm, đồng thời hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước và khuyến khích nhà thầu nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
Thứ năm, Luật đấu thầu năm 2013 có một mục quy định về thuốc, vật tư y tế sử dụng vốn nhà nước, nguồn quỹ bảo hiểm y tế, nguồn thu từ dịch vụ khám chữa bệnh và nguồn thu hợp pháp khác của cơ sở y tế công lập. Riêng đối với đấu thầu mua thuốc, Luật đấu thầu năm 2013 quy định bổ sung hình thức đàm phán đánh giá đối với gói thầu mua thuốc chỉ có từ một đến hai nhà sản xuất, thuộc biệt dượ gốc, thuốc hiếm, thuốc trong thời gian còn bản quyền và các trường hợp đặc thù khác theo quy định của Chính phủ.
Thứ sáu, Luật bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về thủ tục, phương pháp lựa chọn nhà đầu tư trên cơ sở tổng hợp các thông lệ quốc tế tốt và rút kinh nghiệm từ thực tiễn lựa chọn nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cộng tại VIệt Nam trong thời gian qua. Đi đôi với giải pháp phát triển quyết liệt để thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) nhằm thúc đẩy tái cơ cấu đầu tư công, quy định này góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thu hút, lựa chọn nhà đầu tư một cách minh bạch, cạnh tranh; xây dựng niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Thứ bảy, Luật đấu thầu năm 2013 đã sửa đổi một số quy định hiện hành về ký kết thực hiện và quản lý hợp đồng; quy định hợp đồng trọn gói là loại hợp đồng cơ bản, khi quyết định áp dụng loại hợp đồng theo đơn giá cố định, đơn giá điều chỉnh thì người phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu phải đảm bảo loại hợp đồng này phù hợp hơn so với hợp đồng trọn gói.
Thứ tám, khác với Luật đấu thầu năm 2005, Luật đấu thầu năm 2013 phân cấp triệt để việc quyết định hình thức chỉ định thầu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp mà không yêu cầu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Để việc phân cấp gắn với trách nhiệm giải trình, tránh khép kín trong đấu thầu, Luật đấu thầu năm 2013 đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình của người dân có thẩm quyền, chủ đầu tư trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
Thứ chín, Luật cũng bổ sung quy định về yêu cầu giám sát của cộng đồng trong quá trình lựa chọn nhà thầu và thực hiện hợp đồng, bổ sung trách nhiệm về giám sát của người có thẩm quyền, cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cá nhân đối với từng hoạt động trong quá trình đấu thầu để có cơ sở quy định chế tài xử lý vi phạm tương ứng với từng hành vi vi phạm.
Thứ mười, Luật đấu thầu năm 2013 bổ sung một số hành vi bị cấm trong đấu thầu, đồng thời quy định thêm biện pháp xử phạt đối với cá nhân được giao trách nhiệm xử phạt nhưng không tuân thủ quy định, các biện pháp phạt bổ sung như đăng tải công khai các tổ chức, cá nhân vi phạm trên phương tiện thông tin đại chúng, buộc phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về đấu thầu hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định.
Doãn Hiền



Cần nắm vững Luật đấu thầu năm 2013 để thực hiện

Kể từ ngày 1/7, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 có hiệu lực thi hành. Về cơ bản, Luật đấu thầu năm 2013 sửa đổi toàn diện Luật đấu thầu năm 2005. Do đó, để có thể đảm nhận và triển khai thuận lợi những nội dung mới của công tác đấu thầu trong thời gian tới, những cán bộ làm công tác đấu thầu phải nắm vững những nội dung thay đổi cơ bản của Luật. Để kịp thời phổ biến, triển khai thực hiện Luật, ngày 7/1, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức lớp tập huấn phổ biến những nét mới, cơ bản của Luật đấu thầu năm 2013 cho 150 cán bộ các Bộ, cơ quan ngang Bộ, doanh nghiệp nhà nước và một số hiệp hội doanh nghiệp.

Bao phủ toàn bộ việc mua sắm sử dụng vốn nhà nước
Theo đó, kể từ ngày Luật đấu thầu năm 2013 có hiệu lực thì Luật đấu thầu số 61/2005/QH11 hết hiệu lực thi hành; và bãi bỏ Mục 1 Chương VI Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 và Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản số 38/2009/QH12.

Điểm đáng lưu ý nhất đối với Luật đấu thầu năm 2013 là mở rộng tối đa phạm vi điều chỉnh nhằm quản lý chặt chẽ việc quản lý và sử dụng nguồn vốn của Nhà nước. So với Luật đấu thầu năm 2005, nhiều nội dung mới được đưa vào Luật đấu thầu năm 2013 là mua sắm sử dụng vốn nhà nước như mua thuốc, vật tư y tế; mua hàng dự trữ quốc gia; cung cấp sản phẩm, dịch vụ công… 
Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước, trước đây, chỉ những dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên mới phải đấu thầu; thì nay, Luật đấu thầu năm 2013 quy định, tất cả các dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước không phân biệt nguồn vốn, dù là vốn vay thương mại hay nguồn vốn nào khác,  đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. 
Trường hợp lựa chọn nhà thầu cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn để bảo đảm tính liên tục cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và mua sắm nhằm duy trì duy trì hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước không bắt buộc tuân thủ theo Luật đấu thầu. Việc quy định như vậy là nhằm tăng tính chủ động của các doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mặc dù vậy, Luật đấu thầu năm 2013 quy định rõ, doanh nghiệp nhà nước phải ban hành quy định về lựa chọn nhà thầu của doanh nghiệp mình trên cơ sở bảo đảm mục tiêu công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Việc ban hành quy định như vậy sẽ tạo nên sự thống nhất áp dụng trong toàn doanh nghiệp; đồng thời giúp các cơ quan quản lý, thanh tra, kiểm tra dễ dàng quản lý và thanh, kiểm tra hoạt động đấu thầu tại doanh nghiệp. Hơn nữa, việc ban hành quy chế đấu thầu của doanh nghiệp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát, minh bạch thông tin đấu thầu tại doanh nghiệp nhà nước.
Về các hành vi bị cấm trong đấu thầu, Luật đấu thầu năm 2013 cơ bản kế thừa Luật đấu thầu năm 2005. Tuy nhiên, Luật đấu thầu năm 2013 được viết rõ ràng, mạch lạc hơn. Điều khác biệt của Luật đấu thầu năm 2013 là các nội dung được nhóm lại thành các nhóm vấn đề và mỗi nhóm vấn đề lại được định nghĩa cụ thể. Chẳng hạn như thế nào là thông thầu, thế nào là gian lận, thế nào là cản trở… 
Cùng với đó, phần giải thích từ ngữ so với Luật đấu thầu năm 2005 được viết rõ hơn, bên cạnh việc bổ sung một số định nghĩa về những khái niệm mới. Chẳng hạn như khái niệm “bên mời thầu”, Luật đấu thầu năm 2013 khẳng định, đây là cơ quan, tổ chức có chuyên môn và năng lực để thực hiện các hoạt động đấu thầu. Nếu chủ đầu tư có chuyên môn và năng lực, thì chủ đầu tư có thể trực tiếp làm bên mời thầu. Nhưng nếu không có chuyên môn và năng lực thì chủ đầu tư có thể quyết định thành lập ban quản lý dự án hoặc lựa chọn nhà thầu tư vấn để thực hiện chức năng bên mời thầu. Bên cạnh đó, đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng nguồn vốn mua sắm thường xuyên, đơn vị mua sắm tập trung cũng có thể làm bên mời thầu. Nhưng riêng với đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, bên mời thầu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức trực thuộc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn.
Đối với nhà thầu, nhà đầu tư, một trong những điều kiện về tư cách hợp lệ của nhà thầu, nhà đầu tư tham gia đấu thầu là phải đăng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Việc đăng ký này khác với đăng ký thành lập doanh nghiệp. Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp chỉ quản lý ban đầu về tên gọi, nội dung hoạt động của doanh nghiệp. Còn việc đăng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là liên tục được cập nhật trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp là nhà thầu, chủ đầu tư, bên mời thầu. Việc đăng ký này giúp các cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư, bên mời thầu hoặc các cơ quan liên quan có thể có số liệu cụ thể để theo dõi, giám sát. Hơn nữa, việc đăng ký này cũng là một cách thức để chứng minh năng lực, uy tín của nhà thầu, chủ đầu tư, bên mời thầu. Chẳng hạn, nhà thầu A và nhà thầu B đều có 5 năm kinh nghiệm, nhưng nhà thầu A có tiểu sử là tiến độ thi công nhanh, đảm bảo uy tín, chất lượng công trình, thì sẽ được ưu tiên xem xét hơn nhà thầu B. Ngoài ra, việc đăng ký công khai, minh bạch trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia cũng giúp cho các bên liên quan, cộng đồng có thể giám sát chặt chẽ hoạt động của nhà thầu, hay chủ đầu tư, bên mời thầu…
 

1 nhận xét: