Bàn về chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị là gì? Chuỗi giá trị có sự hợp tác giữa tất cả các nhà sản xuất trong chuỗi cung cấp để đảm bảo rằng không có một sự thất thoát giá trị nào nếu như có một mắt xích hoạt động kém trong chuỗi này.Chuỗi giá trị là một liên minh giữa những doanh nghiệp liên kết dọc để đạt những vị thế xứng đáng hơn trên thương trường. Sự hợp tác tạo ra những giá trị và giảm những chi phí. Khách hàng cần hướng đến chuỗi giá trị, bởi vì mỗi khách hàng yêu cầu những tiêu chuẩn cụ thể.
Những công ty trong chuỗi giá trị độc lập về mặt pháp lý, nhưng trở thành phụ thuộc lẫn nhau bởi vì họ có những mục tiêu chung và hoạt động để đạt được điều đó. Họ cùng làm việc với nhau trong thời gian dài, cùng thảo luận vấn đề và giải quyết những vấn đề cùng nhau. Điều này hơn cả những hợp đồng lâu dài.
Mỗi một thành viên của chuỗi giá trị là người mua hàng của người trước và là nhà cung cấp cho người sau.
Mỗi một công ty có thể độc lập với nhau, nhưng các công ty lại phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi thành viên góp thêm giá trị tại cuối của chuỗi bằng cách đóng góp vào sự thỏa mãn của khách hàng.
Những thay đổi trong nông nghiệp vài thập niên vừa qua cho thấy hội nhập dọc trong nông nghiệp là cần thiết cho sự thành công về mặt kinh tế. Một lý do khác là ngày càng tăng lên về những yêu cầu truy cứu nguồn gốc sản phẩm một cách đầy đủ. Xây dựng chuỗi giá trị là phương pháp đạt được sự hội nhập dọc kết hợp nhiều doanh nghiệp riêng lẻ cùng làm việc với nhau với mục tiêu chung thông qua sự hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau trong khi vẫn duy trì sự độc lập. Mục tiêu chung sẽ tối đa hóa giá trị cho tất cả trong chuỗi giá trị.
Một chuỗi giá trị mà hội nhập dọc hoàn toàn sẽ cải tiến chất lượng, làm tăng hiệu quả, cho phép tạo ra những sản phẩm khác biệt và làm tăng lợi nhuận.
3. Những ví dụ thực tế về chuỗi giá trịDưới đây là một số ví dụ thực tế về những chuỗi giá trị thành công. Ví dụ đầu tiên có thể giống cho ngành đà điểu. Đó là việc sản xuất dầu Canola (viết tắt của "Canadian oil, low acid, tên thương mại của một loại dầu từ cây củ cải dầu).Dầu Canola gia nhập vào một thị trường đã phát triển với những loại dầu truyền thống như là dầu hoa hướng dương và đậu nành. Người ta phải tìm ra cách để tạo ra sự khác biệt sản phẩm của mình để xâm nhập thị trường. Đà điểu đang nỗ lực xâm nhập vào thị trường thịt đầy tính cạnh tranh và hiệu quả cao, cạnh tranh với những loài mà người tiêu dùng đã biết từ lâu.
a. Dầu canola của Dow AgroSciences’s Nexera mang những đặc điểm giá trị gia tăng vào thị trường thông qua một chuỗi giá trị giữ tính đồng nhất (IP). Dầu canola Nexera được sản xuất đặc biệt để cung cấp một cách ổn định loại dầu Natreon. Loại dầu này có tính ổn định và có lợi cho sức khỏe được người tiêu dùng mong đợi. Sự ổn định lớn hơn làm cho dầu không bị hyđrô hóa, vì vậy làm tăng hiệu quả rán (thức ăn) và thời hạn sử dụng của sản phẩm trong khi loại bỏ được việc chuyển đổi sang chất béo trong thức ăn. Những quy định mới về ghi nhãn chuyển béo tại Mỹ và Canada đã làm tăng nhu cầu sử dụng về dầu Natreon lên gấp nhiều lần.
Những lợi ích chính của chuỗi giá trị này bao gồm những cơ hội tiếp thị duy nhất, thị trường được đảm bảo, cơ hội tạo ra những giá trị lớn hơn từ một thị trường chung, chống lại việc cạnh tranh ở cấp độ toàn cầu của dầu đậu nành và khả năng quản lý rủi ro. Bạn có thể đọc chi tiết về sự thành công của cách tiếp cận này tại http://www.agfoodcouncil.com/serve/chainstory7.html
b. Warburtons là nhà sản xuất bánh nướng có cơ sở tại Anh. Họ mua lúa mì thông qua máy hút lúa ở Canada và thực hiện chuỗi giá trị với những nhà sản xuất tham gia. Thông tin liên lạc ổn định có ở chuỗi giá trị này, để tiếp tục giá trị họ đã tạo ra thông qua sự hợp tác và đảm bảo ngũ cốc là đồng nhất. Chuỗi giá trị của Warburtons cho phép họ tiếp tục tạo ra những sản phẩm bánh ổn định, chất lượng cao. Những chi tiết đầy đủ bạn có thể đọc tại trang web sau: http://www.agfoodcouncil.com/serve/chainstory8.html
c. Hội thịt đỏ, do Ủy ban gia súc và thịt lập nên, có trụ sở tại Anh để cải tiến hiệu quả trong chuỗi cung cấp, đang tập trung phát triển chuỗi giá trị. Gần đây họ phát hành những nghiên cứu về 4 sáng kiến về chuỗi giá trị. Ba trong 4 nghiên cứu là về chuỗi siêu thị ASDA, thuộc tập đoàn Walmart, và nghiên cứu còn lại về nhà bán lẻ Mark & Spencer. Tất cả tập trung vào những nhà kinh doanh thực phẩm hàng đầu. Tất cả những nghiên cứu này bạn có thể đọc tại trang web sau: http://www.redmeatindustryforum.org.uk
Tóm lược về những nghiên cứu này như sau:
• Tặng thưởng cho những nông dân đã cải tiến chất lượng cừu bằng cách sử dụng tiêu chuẩn chất lượng mới dựa trên kỹ thuật định giá được xây dựng trên trên cơ sở cung cấp Lamb Link hiện tại. • Sử dụng những phương thức vận tải khác nhau để vừa cải tiến việc chuyên chở súc vật đến nhà giết mổ, vừa tăng hiệu quả. • Áp dụng những cải tiến hiệu quả vào những dây chuyền pha lóc và đóng gói với việc quản lý bằng hình ảnh tốt hơn và chương trình “bảo dưỡng ngăn ngừa toàn diện”.• Giảm sự khác nhau giữa việc bán hàng thực tế và đơn đặt hàng tại công ty Welsh Country Foods.
• Thành lập Hiệp hội những nhà cung cấp để phát triển cách làm việc mới gắn với sự hợp tác của toàn thể cộng đồng và việc cải tiến liên tục.
Những tài liệu rõ hơn về vấn đề này có thể tìm thấy tại:Trường đại học Cornell,Smart Marketing: http://hortmgt.aem.cornell.edu/pdf/smart_marketing/gloy9-05.pdf#search=%22Agriculture%20Value%20Chain%22 Hợp tác chuỗi giá trị cho nông nghiệp bền vững (VCPSA): http://www.valuechains.org/ Alberta Value Chain: http://www.agfoodcouncil.com/serve/chainindex.html
Thật tiếc rằng hội thảo tại Việt nam bị hủy bỏ do thiếu sự đóng góp hiệu quả và chúng ta không có cơ hội để thảo luận cách thức chúng ta thực hiện cách tiếp cận này. Chúng tôi hi vọng rằng sẽ có cơ hội khác tại nơi này hoặc nơi khác để hội thảo trong thời gian gần nhất.
4. Ngành công nghiệp vải sử dụng lông gà. Một bản báo cáo được đăng tải trong tuần này đề cập đến việc ứng dụng công nghệ mới, mà về lâu dài có thể mang lại lợi ích cho ngành của chúng ta.
Sản lượng sợi tự nhiên và tổng hợp được dùng hàng năm trên thế giới khoảng 67 triệu tấn, không chỉ riêng cho ngành dệt vải, mà còn ở làm thảm, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng và phần lớn những đồ dùng hàng ngày. Thỏa mãn những nhu cầu tăng lên toàn cầu về các loại sợi có thể là thách thức trong thời gian tới bởi vì diện tích đất canh tác có giới hạn cũng như là việc tăng giá và giảm lượng dầu mỏ.
Phát triển những công nghệ để sản xuất sợi từ những nguồn nguyên liệu có thể tái tạo và dễ bị phân hủy (sau khi dùng) cũng như thỏa mãn sự nhận thức đang tăng lên về vấn đề môi trường. Bạn có thể xem toàn bộ bản báo cáo này tại địa chỉ web:http://www.livescience.com/othernews/060911_rice_chickens.html.
5. Trứng lớn nhất thế giới ở Thụy Điển
Bài báo sau được đăng tải vào ngày 22/09/2006 và có thể xem tại trang web: http://www.thelocal.se/article.php?ID=4993
Thị trấn nhỏ Borlange miền Trung Thụy Điển sẽ được ghi vào sách kỷ lục. Quả trứng to nhất thế giới bây giờ – hơn 2,5 kg – thuộc về Gunnar và Kerstin Sahlin.
Quả trứng đà điểu được cho là kỷ lục này mau chóng được mang đến bưu điện để được cân sau khi được đẻ vào ngày thứ Tư tại trang trại của Sahlin ở Stora Tuna.
Kerstin Sahlin nói: “Thật là kỳ diệu! Chúng tôi vẫn còn xúc động về điều này. Chúng tôi không nghĩ rằng chúng tôi sẽ có được quả trứng to đến như thế trong năm nay. Khi thời tiết xấu đà điểu sẽ ngừng và chờ để đẻ trứng lại. Chưa từng có mùa thu nào dài và ấm như vậy.”
Bộ đôi này đã từng giữ kỷ lục châu Âu về quả trứng lớn nhất 2,3 kg. Kỷ lục quả trứng lớn nhất thế giới trước đây thuộc về Hà Lan, cân nặng 2,484 kg. Đà điểu là loài chim lớn nhất thế giới và thường đẻ trứng nặng khoảng 1,5 kg.
Gia đình Sahlin không chắc lắm về việc họ sẽ làm gì với quả trứng này. Kerstin Sahlin nói: “Chúng tôi đang nghĩ sẽ làm một ổ bánh nướng thật lớn. Và cũng có thể dùng quả trứng để làm kem.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét