Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Những vấn đề cơ bản về đầu phát triển trong doanh nghiệp truyền tải điện



Những vấn đề cơ bản về đầu phát triển trong doanh nghiệp truyền tải điện
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dung vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất ( nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ ( tri thức, kỹ năng …), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực sẻ dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài nguyên.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Tùy từng góc độ khác nhau mà có thể phân chia thành các nhóm đối tượng đầu tư. Ví dụ: Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng thì chia thành loại được khuyến khích đầu tư, loại không khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư; dưới góc độ tài sản bao gồm: tài sản vật chất và tài sản vô hình….
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất ( nhà xưởng, thiết bị…) tài sản trí tuệ ( trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và tài sản vô hình ( phát minh sang chế, bản quyền…) Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của doanh nghiệp hay của xã hội
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu hóa chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực…
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài và tồn tại vẫn đề “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư và thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai.
Đầu tư phát triển khác về bản chất với đầu tư tài chính. Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc tùy vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng tài sản thực cho nền kinh tế. mà chỉ làm tăng giá trị tái sản tài chính cho chủ đầu tư. Đầu tư tài chính thường được thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hang, công ty chứng khoán. Đầu tư tài chính thường có đặc điểm là: Chủ đầu tư thường kỳ vọng thu về được lợi nhuận cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể giảm không theo ý muốn. Tuy nhiên, đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những hình thức đầu tư lựa chọn để tối đa hóa lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các hoạt động đầu tư.
Từ những sự khác nhau đó, ta có thể thấy những đặc điểm cơ bản của đầu tư phát triển như sau:
Về mặt quy mô vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư: Quy mô vốn đầu tư lớn và nằm khê động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Do đó đòi hỏi cần có các giải pháp tạo và huy động vốn hiệu quả, hợp lý,  xây dựng chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ, thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Lao động cần sử dụng cho các dự án lớn, đặc biệt là các dự án quan trọng, các dự án trọng điểm. Do đó công tác tuyển dụng, đào  tạo, sử dụng, đãi ngộ… cần theo kế hoạch định trước sao cho đáp ứng được nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư.
Về mặt thời gian: Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ thời điểm khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hang chục năm. Do đó, với một lượng vốn lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cần tiến hành bố trí vốn và các nguồn lực dứt điểm theo từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Thời gian vận hành các kết quả của quá trình đầu tư thường kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình đi vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài. Tuy nhiên, trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động của nhiều yếu tố: tự nhiên, chính trị, kinh tế xã hội… do vậy, cần thiết phải có phương pháp dự báo khoa học về cả vi mô và vĩ mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án. Bên cạnh đó cũng cần quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn. Ngoài ra cũng cần chú ý đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây được coi là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên. Do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng. Do đó, khi quản lý hoạt động đầu tư cần phải quán triệt đặc điểm này trên nôi dung sau: Thứ nhất, cần có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng như đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý… cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên những căn cứ khoa học. Thứ hai, cần phải lựa chọn thời điểm đầu tư hợp lý sao cho khai thác được tối đa những lợi thế vùng và không gian đầu tư. Tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư.
Một đặc điểm cuối cùng có thể kể đến của đầu tư phát triển là đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài.. nên mức độ rủi ro của các hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản phẩm không đạt công suất thiết kế…Do đó, để quản lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro như: nhận diện rủi ro đầu tư, đánh giá mức độ rủi ro, cuối cùng là xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro và mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chống tương ứng nhằm hạn chế thấp nhất các thiệt hại có thể có do rủi ro gây ra.
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư phát triển trong doanh nghiệp truyền tải điện
Để hiểu khái niệm đầu tư phát triển trong một doanh nghiệp truyền tải điện, trước hết ta cần hiểu về công tác truyền tải điện của doanh nghiệp truyền tải điện.
“ Truyền tải điện là hoạt động quản lý, vận hành các công trình điện để đưa năng lượng điện từ nơi sản xuất điện đến lưới điện phân phối”
Như vậy, đầu tư phát triển trong doanh nghiệp truyền tải điện là hoạt động chi dung vốn và các nguồn lực hiện có của doanh nghiệp truyền tải điện cho các hoạt động xây dựng mới và sửa chữa các thiết bị lưới truyền tải điện, vận hành, thí nghiệm, hiệu chỉnh các thiết bị lưới điện sau sửa chữa và xây dựng mới; phục hồi, cải tạo, xây lắp các trạm biến áp và đường dây truyền tải mới trong địa bàn quản lý, vận hành của công ty nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản của doanh nghiệp như về số lượng các trạm biến áp, số km đường dây truyền tải, chất lượng, năng lực hệ thống truyền tải sau khi được nâng cấp… đồng thời có thể tạo thêm được việc làm và nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty.
1.1.2.2. Nguồn vốn trong doanh nghiệp truyền tải điện
Hiện nay trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp cũng được đa dạng hóa. Tùy theo điều kiện phát triển của thị trường tài chính và tùy thuộc theo từng loại hình doanh nghiệp có thể có những phương thức tạo vốn và huy động vốn đầu tư khác nhau. Cụ thể:
Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu chủ yếu huy động từ:
+ Vốn góp ban đầu
+ Lợi nhuận không chia
+ Phát hành cổ phiếu mới
Các hình thức huy động nợ chủ yếu được huy động từ:
+ Tín dụng thương mại
+ Tín dụng ngân hang
+ Tín dụng thuê mua
+ Phát hành trái phiếu
Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Truyền tải điện nói riêng việc xây dựng chiến lược huy động vốn hợp lý trong bối cảnh như hiện nay thì trước tiên cần phải đảm bảo các điều kiện để huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Các điều kiện đó là:
+ Tạo lập và duy trì tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế
+ Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
+ Khả năng, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp
+ Xây dựng các chính sách huy động vốn hợp lý, đồng bộ và có hiệu quả. Có kế hoạch cụ thể theo từng giai đoạn, thời kỳ
+ Áp dụng mở rộng các hình thức vốn tín dụng đầu tư phát triển
+ Hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách sao cho phù hợp với điều kiện mới. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể áp dụng đa dạng các phương thức huy động vốn
+ Thành lập và phát triển hệ thống quỹ đầu tư và quỹ hỗ trợ phát triển
Đối với doanh nghiệp Truyền tải điện, là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tập đoàn điện lực Việt Nam ( EVN). Là doanh nghiệp thực hiện chức năng công ích của EVN nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội. Về mặt tài chính, các công ty Truyền tải điện vẫn là một đơn vị hạch toán phụ thuộc nhưng đã chủ động trong những việc lập kế hoạch như kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch chi phí, kế hoạch quỹ tiền lương.
Mặc dù vậy, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Truyền tải điện cũng giống như các doanh nghiệp khác được hình thành từ các nguồn sau:
·              Nguồn vốn bên trong (hay còn gọi là vốn tự có): Nguồn này chủ yếu được hình thành từ vốn cấp của cơ quan cấp trên là Tập đoàn điện lực Việt Nam thông qua việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, những kế hoạch năm về chi phí, những bản dự toán được EVN phê duyệt. EVN cũng cấp chi phí sản xuất, vốn đầu tư xây dựng, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ đầu tư phát triển…Do sự đặc biệt của nguồn hình thành vốn nên nguồn này chịu sự giám sát rất chặt chẽ nên trong quá trình sử dụng phải quản lý, khai thác sử dụng vốn và các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất. Đồng thời tìm mọi biện pháp để giảm chi phí và tăng hiệu quả.
·              Nguồn vốn bên ngoài: Cũng giống như các doanh nghiệp kinh doanh ở các lĩnh vực khác, trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp truyền tải điện cũng ở trong tình trạng thiếu vốn, và để bù vào khoản vốn thiếu hụt này các doanh nghiệp truyền tải điện cũng phải thông qua hình thức tài trợ gián tiếp qua các trung gian tài chính mà chủ yếu ở đây là các ngân hang thương mại trong và ngoài nước.
Có thể thấy, các nguồn vốn huy động của doanh nghiệp Truyền tải điện khá đơn giản chưa áp dụng được các hình thức huy động vốn tiên tiến trên thị trường tài chính hiện nay. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự cứng nhắc của cơ chế chính sách quản lý tài chính của các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, do đặc thù hoạt động của doanh nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự đa dạng linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp.
Vì các công ty Truyền tải điện có nhiệm vụ quản lý khai thác và vận hành lưới điện an toàn, liên tục, kinh tế và đảm bảo chất lượng điện năng. Thiết lập các biện pháp ngăn ngừa sự cố, giảm và khắc phục nhanh các sự cố, giảm tổn thất điện năng theo chỉ tiêu được giao…nên nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Truyền tải điện chủ yếu tập trung để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ của công ty. Tuy nhiên, nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Truyền tải điện cũng tương tự như các doanh nghiệp khác, đó là tập trung đầu tư vào các nội dung cụ thể sau:
Đầu tư cho công tác xây lắp
Đầu tư cho công tác xây dựng là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định của doanh nghiệp. Đầu tư xây dựng bao gồm các hoạt động chính như: Xây lắp mới các công trình điện và các công trình phụ trợ, hoạt động nâng cấp cải tạo các công trình cũ đã xuống cấp hay các công trình thuộc kế hoạch nâng cấp phù hợp với chiến lược kế hoạch sản xuất của công ty.
Trong một doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho tang, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị…Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị.
Đối với doanh nghiệp Truyền tải điện có phạm vi quản lý rộng trên toàn miền bắc ( từ Hà Tĩnh trở ra), công tác đầu tư xây dựng có vai trò hết sức quan trọng vì đây là hoạt động tạo ra cơ sở hạ tầng cho ngành điện của Việt Nam.  Công tác đầu tư xây dựng bao gồm:
- Đầu tư xây dựng mới các nhà điều hành sản xuất tại các trạm truyền tải, xây mới các trạm biến áp và đường dây  500kv, 220kv, 110kv, cùng một số các công trình liên quan đến hoạt động của các trạm truyền tải điện. Như đã biết, trạm biến áp dùng để biến đổi điện năng từ cấp điện áp này sang cấp điện áp khác nên có thể nói nó đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống cung cấp điện nhà máy điện và là một phần tử quan trọng của hệ thống điện và có thể cung cấp điện năng cho các phụ tải ở xa. Trên thực tế, trạm biến áp chia ra làm nhiều loại từ công suất nhỏ đến công suất lớn phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, số công trình xây mới các trạm điện và đường dây đi kèm hiện nay không nhiều và phụ thuộc vào kế hoạch phát triển của ngành điện, cũng như kế hoạch truyền tải điện từng năm. Đặc điểm của đầu tư xây dựng mới các trạm biến áp và các công trình phụ trợ tùy vào từng loại nhưng thường đòi hỏi lượng vốn khá lớn
- Đầu tư nâng cấp, cải tạo các công trình điện: Đây là hình thức đầu tư thường đựoc các doanh nghiệp truyền tải điện thực hiện do hệ thống mạng lưới truyền tải điện của nước ta đã tồn tại từ khá lâu nên chất lượng đã không còn được đảm bảo. Hơn nữa, việc nâng cấp cải tạo từ nền tảng hệ thống cũ sẽ tiết kiệm đựoc nhiều thời gian và chi phí hơn so với việc xây dựng mới các công trình này đồng thời có thể nhanh chóng đưa vào khai thác sử dụng.
Ngoài ra, để phục vụ công tác và sự hoạt động của các công trình một cách có hiệu quả, đảm bảo tính ổn định của hệ thống cũng như chất lượng điện năng cung cấp và truyền tải an toàn và liên tục. Đặc biệt, trong ngành điện, sự chính xác và an toàn của các thiết bị điện là rất cần thiết. Do vậy, khi tiến hành xây dựng, việc đầu tư mua sắm các máy móc thiết bị phục vụ cũng được thực hiện một cách khoa học và nghiêm túc vừa đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật của các thiết bị, tính tương thích giữa chúng và vừa đảm bảo được tính hiệu quả kinh tế.
Đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị và công nghệ
Hoạt động đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị và công nghệ của công ty được thể hiện qua việc đầu tư vào các loại máy móc thiết bị sau:
·        Các thiết bị điện chuyên ngành
·        Thiết bị thi công
·        Phương tiện vận tải
·        Phương tiện xếp dỡ
Hiện nay máy móc thiết bị và công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến việc sản xuất kinh doanh tạo ra của cải vật chất và làm tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp truyền tải điện, sản phẩm của doanh nghiệp không thể hiện ở dạng vật chất mà thể hiện ở năng lực truyền tải hay có thể nói sản phẩm của doanh nghiệp truyền tải điện là dịch vụ truyền tải điện. Thêm vào đó, do đặc điểm riêng biệt của ngành điện là quá trình sản xuất – phân phối – tiêu thụ luôn đi liền với nhau, không có khả năng dự trữ, tồn kho nên hoạt động truyền tải điện luôn có nhiều biến động và phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng và khả năng cung cấp của các nhà máy điện. Từ đó có thể thấy được rõ vai trò của công tác truyền tải điện là một khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dung. Để khâu trung gian được vận hành tốt không thể không kể đến sự vận hành liên tục của các trạm các đường dây. Do đó, việc đầu tư mua sắm mới, cải tạo nâng cấp, sửa chữa những máy móc thiết bị hiện có của các trạm truyền tải điện để nâng cao được hiệu quả hoạt động, nâng cao công suất truyền tải bằng cách tận dụng tối đa những trang thiết bị hiện có là hoạt động luôn được thực hiện tại công ty.
 Ngoài ra, Đồng thời với việc lên kế hoạch đầu tư cho việc mua sắm, sửa chữa (đại tu, trung tu, tiểu tu) góp phần giúp cho sự hoạt động của các loại máy móc thiết bị có thể hoạt động liên tục, tránh được những sự cố có thể xảy ra với lưới điện, việc truyền tải điện năng diễn ra thông suốt và đảm bảo chất lượng điện năng thì công ty cũng phải quan tâm đến việc đầu tư vào các thiết bị phục vụ cho công tác xây dựng. Đây là những thiết bị không thể thiếu khi công ty tiến hành đầu tư nâng cấp các công trình xây dựng trạm điện, đường dây hay các công trình phụ trợ. Có thể nói đây là một trong những hoạt động thường xuyên của các công ty truyền tải điện và được công ty chú trọng đầu tư một lượng vốn lớn và được các công ty truyền tải điện thực hiện thông qua các bản kế hoạch dài hạn năm năm và có phân ra từng năm, từng quý để thuận lợi cho quá trình thực hiện và quản lý.
Đầu tư cho hoạt động sửa chữa lớn
Một trong những hoạt động đầu tư có thể coi là đặc trưng của ngành truyền tải điện nói riêng và các ngành có lượng máy móc thiết bị sử dụng cao nói chung là đầu tư cho hoạt động sửa chữa lớn. Công tác này được diễn ra gần như hang năm đối với các loại máy cũ và vài năm đối với các loại máy mới. Nội dung của công tác sửa chữa lớn khá nhiều và thường là rất phức tạp, yêu cầu cần có thợ phải có tay nghề cao. Các chi tiết hoặc cụm chi tiết được thay thế thường có giá trị cao. Với sự vận hành liên tục, hệ thống lưới truyền tải luôn hoạt động một cách quá tải điều này sẽ dẫn đến sự xuống cấp ngày càng nghiêm trọng của các loại máy móc thiết bị nếu như không có sự can thiệp điều chỉnh. Và hậu quả sẽ là rất lớn. Do đó, hang năm công tác đầu tư sửa chữa lớn luôn được công ty quan tâm chú ý bằng việc lập kế hoạch đầu tư và lập kế hoạch dự toán đầu tư sửa chữa lớn để cân đối vốn thực hiện.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Trong bối cảnh hiện nay, với xu hướng toàn cầu hóa, nhiều doanh nghiệp đã nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng cách tiếp thu áp dụng những thành quả khoa học công nghệ và đi kèm theo đó là sự đòi hỏi người lao động phải có trình độ kỹ thuật để đáp ứng vận hành được các loại máy móc hiện đại này. Xét về bản chất, nhân lực chính tác nhân chính tạo ra vốn và đưa ra những ý tưởng mới trong quản lý. Do vậy, Các doanh nghiệp truyền tải điện cũng không phải là một ngoại lệ khi cũng tập trung vào việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp khác, công ty truyền tải điện hoạt động trong lĩnh vực có điều kiện lao động khó khăn, sức ép công việc lớn và thường có những sự cố đột xuất ngoài kế hoạch. Lưới truyền tải điện thường đóng tại vùng sâu, vùng xa, thời tiết khắc nghiệt, điều kiện sống và sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn. Đặc biệt là trong những điều kiện mưa lũ, các đường dây bị hư hỏng, người lao động phải thâu đêm để khắc phục sự cố. Đối với lao động quản lý, việc vận hành các trạm biến áp môi trường lại khó khăn, vất vả hơn, mức độ nguy hiểm cao hơn, đòi hỏi phải có sự tập trung vá sự hao phí về chất xám và tinh thần rất lớn, điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý người lao động.
Do vậy, đối với các công ty truyền tải điện, công tác đầu tư phát triển nguồn nhân lực tập trung vào hoạt động đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ người lao động và đảm bảo sử dụng hiệu quả trong việc khai thác nguồn lao động sẵn có trên thị trường lao động. Bên cạnh đó, do đặc điểm, điều kiện làm việc khó khăn của ngành điện, các công ty truyền tải điện cũng chú ý đến việc đầu tư cho công tác an toàn cũng như chỉ đạo, kiểm tra việc thí nghiệm các thiết bị, trang bị, dụng cụ an toàn, thực hiện thanh tra việc vận hành máy móc an toàn theo tiêu chuẩn của nhà nước. Đồng thời, công ty cũng chú trọng vào khuyến khích động viên tinh thần người lao động để đảm bảo sự gắn bó và cống hiến của người lao động đối với doanh nghiệp.
Một số nội dung đầu tư khác
Các hoạt động đầu tư khác bao gồm:
- Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.: Đối với nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam nói chung và đối với công ty Truyền tải điện nói riêng thì việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế và khá khiêm tốn. Nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng này là do còn hạn chế về vốn đầu tư và quan trọng hơn là năng lực nghiên cứu còn kém.
-   Đầu tư phát triển thương hiệu, hình ảnh doanh nghiệp: đầu tư vào hệ thống nhận diện công ty, bảng hiệu, đồng phục, xây dựng website, các phần mềm quản lý….

Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây dựng, chi phí cho công tác mua sắm và lắp đặt thiết bị, chi phí quản lý và các chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt
·  Chi phí xây dựng bao gồm: Chi phí xây dựng các công trình, hạng mục công trình thuộc dự án, chi phí phá và tháo dỡ các vật kiến trúc cũ, chi phí san lấp mặt bằng xây dựng, chi phí xây dựng công trình  phụ trợ phục vụ thi công, nhà tạm tại hiện trường để ở và điều hành thi công.
·  Chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị bao gồm: Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ, chi phí đào tạo và chuyển giao công nghệ, chi phí vận chuyển, chi phí bảo quản, bảo dưỡng kho bãi, thuế và chi phí bảo hiểm thiết bị công trình, chi phí lắp đặt thiết bị và thí nghiệm hiệu chỉnh
·  Chi phí quản lý dự án và các chi phí khác bao gồm: chi phí quản lý chung, chi phí tổ chức thực hiện công tác đền bù giải phóng mặt bằng, chi phí thẩm định hoặc thẩm tra thiết kế, tổng dự toán, dự toán xây dựng công trình, chi phí lập báo cáo đầu tư xây dựng, chi phí khảo sát xây dựng, chi phí khởi công, chi phí thẩm định an toàn…
Khối lượng công tác xây dựng phải đạt được các tiêu chuẩn là phải nằm trong thiết kế dự toán đã được phê chuẩn phù hợp với tiến độ thi công đã được duyệt. Ngoài ra khối lượng công tác xây dựng phải đảm bảo đã cấu tạo vào thực thể công trình và đúng theo chất lượng của thiết kế.
Các tài sản cố định được huy động là kết quả đạt được trực tiếp của quá trình thi công xây dựng, được biểu hiện bằng hiện vật hoặc giá trị. Chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật là số lượng các tài sản cố định được huy động, chỉ tiêu biểu hiện bằng giá trị là giá trị các tài sản được huy động. Chúng được tính theo giá dự toán hoặc giá trị thực tế tùy thuộc vào mục đích sử dụng.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khi các tài sản cố định được huy động vào sử dụng, chúng làm gia tăng năng lực sản xuất phục vụ. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm được hiểu là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của tài sản cố định đã huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Năng lực sản xuất phục vụ còn thể hiện ở công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động.
Đối với ngành điện, tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là những công trình điện sau khi được xây dựng mới hoặc sau khi sữa chữa, nâng cấp, cải tạo có khả năng phát huy tác dụng độc lập trong việc truyền tải điện năng đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng và có thể đưa vào hoạt động ngay. Đồng thời khi các tái sản cố định này được huy động vào sử dụng, chúng sẽ làm tăng năng lực sản xuất mà ở đây là năng lực truyền tải điện hay công suất truyển tải điện phục vụ cho công tác phân phối điện đến nơi tiêu thụ.
Hiệu quả đầu tư la một phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có được các kết quả ấy trong một thời kỳ nhất định.
Hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu đo lường hiệu quả. Việc xác định các chỉ tiêu này thường phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư đưa ra.
Hoạt động đầu tư được đánh giá là có hiệu quả khi trị số của các chỉ tiêu đo lường hiệu quả thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức hiệu quả do chủ đầu tư định ra.
Trên thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lý, hiệu quả đầu tư được phân loại theo các tiêu thức sau:
·              Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả xã hội, hiệu quả quốc phòng
·              Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả có hiệu quả đầu tư của dự án, từng doanh nghiệp, từng ngành, địa phương, và toàn bộ nền kinh tế quốc dân
·              Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả tài chính là hiệu quả hạch toán kinh tế, là hiệu quả kinh tế được xem xét trong phạm vi doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả tổng hợp được xem xét trên toàn bộ nền kinh tế
·              Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp
·              Theo tính toán có hiệu quả tuyệt đối và tương đối. Hiệu quả tuyệt đối được tính bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí, hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí.
Bên cạnh việc phân loại hiệu quả đầu tư, để đánh giá chính xác hiệu quả của hoạt động đầu tư cũng cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
·              Phải xuất phát từ mục tiêu của hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư không thể xem là có hiệu quả nếu không đạt được mục tiêu đề ra.
·              Phải xác định tiêu chuẩn hiệu quả để đánh giá hiệu quả đầu tư. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem là thước đo thực hiện các mục tiêu của hoạt động đầu tư
·              Khi đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư cần chú ý đến độ trễ thời gian trong đầu tư để phản ánh chính xác các kết quả đạt được và những chi phí bỏ ra để thực hiện đầu tư
·              Cần sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư.
·              Phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn khi đánh gí hiệu quả của hoạt động đầu tư
a. Mức gia tăng sản lượng điện truyền tải so với vốn đầu tư
Chỉ tiêu này được xác định bằng việc so sánh sản lượng điện truyền tải tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu mức tăng của sản lượng điện truyền tải trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp.
Cách tính:
ΔQ
I(t)
ΔQ: Sản lượng điện truyền tải tăng thêm trong kỳ
I(t): Vốn đầu tư thực hiện trong kỳ
t: Năm nghiên cứu
b. Hệ số huy động tài sản cố định
Chỉ số này được xác định bằng việc so sánh giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp hoặc so với tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện (gồm thực hiện ở kỳ trước chưa huy động được và thực hiện trong kỳ) Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đạt được kết quả của hoạt động đầu tư trong tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trong kỳ nghiên cứu hoặc tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện của doanh nghiệp. Trị số của chỉ tiêu này càng cao phản ánh doanh nghiệp đã thực hiện thi công dứt điểm, nhanh chóng huy động các công trình vào hoạt động, giảm được tình trạng ứ đọng vốn.

Cách tính
                                         ΔF
         Ktscđ =
                                     I xdcb
Ktscđ: Hệ số huy động tài sản cố định
ΔF: Giá trị tài sản cố định mới tăng trong kỳ
Ixdcb: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện
a. Mức tăng năng suất lao động
Để xác định chỉ tiêu năng suất lao động trong công ty Truyền tải điện, được thực hiện bằng cách  so sánh sản lượng điện truyền tải với tổng số lao động của doanh nghiệp.
Cách tính
Q(t)
                    W(t) =
L(t)
W(t): Năng suất lao động kỳ nghiên cứu
Q(t): Sản lượng điện truyền tải kỳ nghiên cứu
L(t): Tổng số lao động trong kỳ nghiên cứu
t: năm nghiên cứu
b. Mức giảm tổn thất điện năng
Tổn thất điện năng trên lưới điện là lượng điện năng tiêu hao cho quá trình truyền tải và phân phối điện khi tải điện từ ranh giới giao nhận với các nhà máy phát điện qua các lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối đến các hộ tiêu thụ điện. Trong công tác quản lý điện, tổn thất điện năng được chia ra gồm tổn thất điện năng kỹ thuật và tổn thất điện năng phi kỹ thuật.
Tổn thất điện năng kỹ thuật là tiêu hao điện năng tất yếu xảy ra trong quá trình truyền tải và phân phối điện. Do dây dẫn, máy biến áp, các thiết bị trên lưới đều có trở kháng, khi dòng điện chạy qua gây tiêu hao điện năng do phát nóng các máy biến áp, dây dẫn và các thiết bị điện; ngoài ra đường dây cao áp từ 110Kv trở lên còn có tổn thất vầng quang; dòng điện qua cáp ngầm, tụ điện còn có tổn thất do điện môi, đường dây điện di song song với đường dây khác như chống sét, dây thông tin…có tổn hao điện năng do hỗ cảm.
Tổn thất điện năng phi kỹ thuật hay còn gọi là tổn thất điện năng thương mại là do tình trạng vi phạm trong quá trình sử dụng điện như tình trạng lấy cắp điện, do sự chủ quan của người quản lý khi công tơ chết….
Xác định tổn thất khu vực và nhận dạng tổn thất điện năng được xem là biện pháp quan trọng nhằm giúp cho người quản lý nhận biết rõ tổn thất điện năng ở khu vực nào, do kỹ thuật hay kinh doanh để có biện pháp xử lý.
Đối với công ty Truyền tải điện I, với nhiệm vụ là quản lý và vận hành lưới điện quốc gia 220kv và 500kv là lưới điện cao áp nên tổn thất điện năng của công ty chủ yếu là tổn thất điện năng kỹ thuật.
1.3. Cơ chế và Quy trình quản lý đầu tư của công ty Truyền tải điện I
a. Cơ chế quản lý đầu tư tại công ty Truyền tải điện I
Trong quá trình quản lý các dự án, công ty tuân thủ theo các văn bản pháp lý, các quy định thủ tục trình tự thực hiện do các cấp chủ quản là Tập đoàn điện lực Việt Nam, Tổng công ty truyền tải điện quốc gia, ngoài ra còn có các văn bản quy định riêng của công ty.
Các văn bản pháp quy trực tiếp có liên quan đến quá trình quản lý đầu tư mà Công ty luôn tuân theo trong quá trình quản lý gồm:
-         Luật Xây dựng ngày 26/11/2003
-         Nghị định số 12/2009/NĐ – CP ngày 12 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
-         Nghị định số 209/2004/NĐ – CP ngày 16 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
-         Nghị định số: 49/2008/NĐ – CP ngày 18 tháng 4 năm 2008 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 209/2004/NĐ – CP về Quản lý chất lượng xây dựng công trình.
-         Thông tư số: 27/2009/ TT – BXD ngày 31 tháng 7 năm 2009 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số nội dung về Quản lý chất lượng công trình xây dựng.
-         Quy chế phân cấp giữa Công ty và các đơn vị trực thuộc Công ty Truyền tải điện I - Số 2945/QĐ – TTĐ1 ngày 06 tháng 8 năm 2010.
b. Quy trình quản lý đầu tư tại công ty Truyền tải điện I
Một trong các yêu cầu quan trọng của công tác đầu tư trong công ty Truyền tải điện I là tất cả các dự án đầu tư trong công ty đều thực hiện theo quy trình quản lý dự án đầu tư xây dựng
-         Mục đích: Nhằm kiểm soát quá trình lập và triển khai dự án từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư nhằm đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí vốn đầu tư hiệu quả nhất
-         Phạm vi áp dụng: Áp dụng với các dự án đầu tư xây dựng do Công ty Truyền tải điện I là chủ đầu tư và trực tiếp quản lý, điều hành dự án hoặc các dự án đầu tư xây dựng do Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia làm  quản lý điều hành dự án










 






 











 





Quy trình đầu tư của Công ty Truyền tải điện I
Hồ sơ dự án
          Hồ sơ dự án là do TVTK lập căn cứ trên quy mô theo phương án đầu tư của danh mục kế hoạch đầu tư xây dựng hàng năm hoặc đột xuất đã được cấp có thẩm quyền duyệt. Hồ sơ dự án được cán bộ phòng đầu tư xây dựng thẩm định và giao cho các phòng liên quan lấy ý kiến.
Sau khi có danh mục kế hoạch đầu tư xây dựng hàng năm hoặc đột xuất đã được cấp có thẩm quyền duyệt, song song với qúa trình TVTK lập dự án trình lãnh đạo Công ty giao cho các TTĐ căn cứ phương án đầu tư được duyệt lập lập hồ sơ xác nhận quy hoạch, tổng mặt bằng tỷ lệ: 1/500 (đối với các dự án chưa có quy hoạch) thoả thuận với các cơ quan liên ngành, triển khai làm thủ tục xin giao đất hoặc thuê đất (nếu có).
Thực hiện thẩm định
          Sau khi hoàn thiện hồ sơ dự án, việc thẩm định dự án do cán bộ phòng đầu tư xây dựng thực hiện. Hồ sơ cũng được chuyển qua các phòng liên quan để lấy ý kiến và tiến hành thu thập thêm các tài liệu có liên quan đến dự án. Nội dung thẩm định bao gồm:
          + Thiết kế bản vẽ thi công ( thiết kế kỹ thuật)
          + Dự tóan xây dựng công trình
Lập tờ trình kết quả thẩm định
Sau khi thực hiện thẩm định nếu việc thẩm định cho kết quả tốt, cán bộ phòng đầu tư xây dựng lập tờ trình kết quả thẩm định. Ngược lại, nếu kế quả thẩm định có những điểm còn bất hợp lý, cán bộ thẩm định giao hồ sơ cho bên tư vấn để tiến hành chỉnh sửa sau đó tiến hành thẩm định lại hồ sơ sau khi đã sửa.
Ra văn bản phê duyệt
Tờ trình kết quả thẩm định sẽ được trình lên lãnh đạo công ty phê duyệt và trình Tổng công ty phê duyệt các dự án thuộc thẩm quyền Tổng công ty. Sauk hi nhận kết quả thẩm định, ban lãnh đạo công ty, tổng công ty sẽ ra văn bản phê duyệt hồ sơ dự án.
Lập, duyệt KHĐT:
Sau khi nhận được văn bản phê duyệt hồ sơ dự án, các cán bộ có liên quan tiến hành lập và phê duyệt KHĐT các dự án hoặc trình Tổng công ty phê duyệt KHĐT các dự án thuộc thẩm quyền của Tổng Công ty.
Triển khai kế hoạch đấu thầu
Trên cơ sở KHĐT được duyệt, triển khai thực hiện: Đấu thầu rộng rãi / Đấu thầu hạn chế / Chỉ định thầu / Chào hàng cạnh tranh / Mua sắm trực tiếp.
Trên cơ sở KHĐT được duyệt; lập, hoàn thiện (do tư vấn hoặc Công ty Truyền tải điện 1 lập) và trình duyệt HSMT cho gói thầu.
-   tổ chức phát hành hồ sơ mời thầu
-         Danh sách các nhà thầu và tổ chức đánh giá
-         Thông báo kết quả đấu thầu đến các nhà thầu và các bên liên quan;
-          Thương thảo hợp đồng và ký hợp đồng với nhà thầu.
Thực hiện dự án
Với mua bán vật tư thiết bị: Theo dõi hợp đồng, làm các thủ tục NK ,tiếp nhận bàn giao; Tiếp nhận các tài liệu kỹ thuật về vật tư thiết bị, kiểm tra và giao cho tư vấn lập BVTC (nếu có); Nghiệm thu vật tư thiết bị.
Sau khi có hợp đồng tổ chức thi công dự án theo nội dung đã được duyệt và áp dụng theo các quy định của pháp luật
Tổ chức quản lý giám sát thi công XD công trình (lập PA chi tiết giám sát thi công và nghiệm thu cho từng dự án) bao gồm: Quản lý giám sát về chất lượng, tiến độ, khối lượng, an toàn lao động, vệ sinh môi trường và phòng chống cháy nổ.
Thực hiện nghiệm thu hoàn thành và hoàn thiện hồ sơ quyết toán
Tổ chức nghiệm thu hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng.
Hoàn thiện hồ sơ hoàn thành công trình (hồ sơ nghiệm thu, hồ sơ chất lượng, hồ sơ khối lượng, hồ so hoàn công và hồ sơ pháp lý liên quan) chuyển cho các đơn vị liên quan để thanh lý hợp đồng và quyết toán công trình.
Quyết toán công trình: Hồ sơ quyết toán, thẩm tra và phê duyệt quyết toán (trình Tổng Công ty duyệt quyết toán các dự án thuộc thẩm quyền của Tổng Công ty)
Lưu trữ hồ sơ công trình: Tất cả các hồ sơ, tài liệu, văn bản liên quan trong quá trình thực hiện dự án đều được lưu trữ theo qui định. Trong quá trình triển khai, hồ sơ mỗi dự án được lưu riêng vào mỗi cặp hồ sơ. Khi dự án  kết thúc, hồ sơ dự án chuyển kho lưu trữ để lưu trữ theo qui định.
1.4.1.  Đặc điểm của doanh nghiệp Truyền tải điện và lĩnh vực hoạt động
            Khác với các doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp Truyền tải điện, với chức năng thực hiện nhiệm vụ truyền tải là khâu trung gian của quá trình cung cấp điện năng tới người tiêu dung và chỉ có duy nhất Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) thực hiện khâu này. Do đó có thể thấy doanh nghiệp Truyền tải điện có đăc điểm sau:
            Thứ nhất, doanh nghiệp Truyền tải điện là một doanh nghiệp độc quyền.
Tính độc quyền được thể hiện qua việc các đơn vị sản xuất điện độc lập muốn hòa vào lưới điện quốc gia thì đều phải có sự đồng ý của Tập đoàn điện lực Việt Nam. Cả nước hiện nay có bốn công ty Truyền tải điện được phân chia phạm vi hoạt động theo lãnh thổ như sau:
- Công ty Truyền tải điện I : Quản lý trong phạm vi Miền bắc ( Từ Hà Tĩnh)
- Công ty Truyền tải điện II :  Quản lý các tỉnh từ Quảng Bình đến Gia Lai
     - Công ty Truyền tải điện III: Quản lý các tỉnh phía nam Miền trung và Tây Nguyên
     - Công ty Truyền tải điện IV: Quản lý trong phạm vi 21 tỉnh và thành phố phía nam.
            Thứ hai, Là một doanh nghiệp hoạt động không có doanh thu.
Doanh nghiệp Truyền tải điện đảm nhận nhiệm vụ do Tập đoàn điện lực Việt Nam giao trong công tác xây dựng các công trình truyền tải điện. Đây được coi là hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính nhu cầu kinh doanh điện của ngành điện.
            Thứ ba, Lĩnh vực truyền tải điện là một trong những lĩnh vực mà các doanh nghiệp tư nhân ít có khả năng tham gia đầu tư do nguồn vốn đầu tư lớn đồng thời hiện nay vẫn chưa cơ chế chính sách cho các doanh nghiệp tư nhân đủ khả năng có thể tham gia thực hiện đầu tư vào lĩnh vực này.
Các doanh nghiệp Truyền tải điện là một bộ phận cấu thành của ngành điện Việt Nam. Đồng thời hoạt động của các doanh nghiệp này cũng phụ thuộc vào định hướng phát triển của ngành điện để có những bước đi phù hợp với yêu cầu chung của ngành điện nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, ngành điện Việt Nam cũng có những bước phát triển, những thành tựu nhất định đáng kể. Để có được những thành tựu đó cần phải có những sự quán triệt về quan điểm, mục tiêu cũng như chiến lược phát triển được xây dựng một cách có kế hoạch làm lộ trình phát triển cho ngành điện. Quan điểm và chiến lược phát triển đó được cụ thể như sau:
Về quan điểm phát triển: Phát triển điện phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đáp ứng nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Đẩy mạnh điện khí hóa nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.
Bảo đảm chất lượng điện năng để cung cấp dịch vụ điện với chất lượng ngày càng cao, giá cạnh tranh. Đặc biệt coi trọng tiết kiệm điện năng từ khâu phát, truyền tải đến khâu sử dụng
Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp của đất nước như nguồn thủy năng (kết hợp với thủy lợi), khí, dầu, than cho sản xuất điện. Áp dụng thiết bị sử dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và giảm ô nhiễm môi trường.
Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện để xây dựng nhà máy nguyên tử sau năm 2015 đảm bảo an toàn tuyệt đối sử dụng, nhằm đa dạng hóa các nguồn năng lượng.  
Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Từng bước hình thành thị trường điện lực cạnh tranh trong nước, đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia, không biến quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ độc quyền khâu truyền tải, xây dựng và vận hành các nhà máy thủy điện lớn, các nhà máy điện nguyên tử. Chủ động trong việc tham gia, liên kết lưới điện và mua bán điện với các nước trong khu vực. Hiện nay, thị trường điện trong nước cũng đang dần trở thành thị trường điện cạnh tranh khi ngày càng có nhiều các nhà máy điện được xây dựng mà không thuộc sở hữu của Tập đoàn điện lực Việt Nam. Tuy nhiên, do mới bước đầu hình thành thị trường cạnh tranh nên trong thực tế còn nhiều bất cập về cơ chế và việc hướng dẫn thực hiện việc mua bán điện giữa các nhà máy sản xuất điện và Tập đoàn điện lực Việt Nam.
Xây dựng giá điện vừa phải đạt mục tiêu khuyến khích đầu tư cho phát triển ngành điện, tăng sức cạnh tranh về giá điện so với các nước trong khu vực, nhất là giá điện phục vụ sản xuất, tách phần chính sách xã hội ra khỏi giá điện. Có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi.
Kết hợp giữa điều hành mạng lưới điện thống nhất trong cả nước với xây dựng và điều hành hệ thống điện an toàn theo từng khu vực nhằm đồng bộ hóa, hiện đại hóa mạng lưới truyền tải, phân phối điện quốc gia để cung cấp dịch vụ điện đảm bảo chất lượng, liên tục, an toàn, hiệu quả.
Về mục tiêu phát triển: Sử dụng tốt các nguồn thủy năng, khí và than để phát triển cân đối nguồn điện. Nghiên cứu, triển khai các phương án sử dụng năng lượng nguyên tử. Đồng bộ hóa mạng lưới phân phối điện quốc gia. Đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện; có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi. Tăng sức cạnh tranh về giá điện so với khu vực.
Chiến lược phát triển: Phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện theo hướng hiện đại. Phát triển thủy điện, nhiệt điện, than, khí, điện nguyên tử… kết hợp trao đổi, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực. Tập đoàn điện lực Việt Nam chỉ đầu tư những công trình phát điện có công suất từ 100MW trở lên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác đầu tư các công trình có công suất nhỏ hơn. Phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại hệ thống truyền tải, phân phối nhằm nâng cao độ tin cây, an toàn cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng.
Với việc phát triển nguồn điện, ưu tiên phát triển thủy điện, nhất là các công trình có lợi ích tổng hợp ( cấp nước, chống lũ, chống hạn…). Khuyến khích đầu tư các nguồn điện nhỏ với nhiều hình thức để tận dụng nguồn năng lượng sạch, tái sinh này. Bên cạnh đó, phát triển các nhà máy nhiệt điện với tỷ lệ thích hợp, phù hợp với khả năng cung cấp và phân bố các nguồn nhiên liệu. Đầu tư khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể xây dựng nhà máy điện nguyên tử, dự kiến đưa vào vận hành giai đoạn sau năm 2015. Có kế hoạch nhập khẩu điện theo hiệp định hợp tác năng lượng đã ký kết. Phát triển các nhà máy sử dụng năng lượng mới và tái tạo. Tận dụng các nguồn năng lượng mới tại chỗ để phát điện cho các khu vực mà lưới điện quốc gia không thể cung cấp được hoặc cung cấp kém hiệu quả, đăc biệt đối với hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Với việc phát triển lưới điện, Phát triển nguồn điện phải đi đôi với phát triển lưới điện, phát triển lưới điện phân phối phải phù hợp với phát triển lưới điện truyền tải. Phát triển nhành hệ thống truyền tải 220kv, 500kv nhằm nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng trên lưới truyền tải, bảo đảm khai thác kinh tế các nguồn điện; phát triển lưới 110kv thành lưới điện phân phối cung cấp trực tiếp cho phụ tải. Nghiên cứu giảm bớt cấp điện áp trung thế của lưới điện phân phối. Nhanh chóng mở rộng lưới điện phân phối đến vùng sâu, vùng xa. Tập trung đầu tư cải tạo lưới điện phân phối để giảm tổn thất điện năng, giảm sự cố và nâng cao độ tin cây cung cấp điện
Về chiến lược phát triển khoa học công nghệ: Tập trung nghiên cứu khoa học công nghệ tiên tiến áp dụng cho sản xuất và truyền tải điện năng. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất theo hướng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu tác động đến môi trường với những bước đi hợp lý. Đầu tư chiều sâu, cải tạo nâng cấp và hiện đại hóa đối với nguồn và lưới điện hiện có, cải tiến công tác quản lý, kinh doanh và dịch vụ khách hang.
Về phát triển nguồn nhân lực: Về công tác cán bộ, tiến hành lập quy hoạch cán bộ, tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong diện quy hoạch. Về công tác đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khối các trường chuyên ngành điện lực, phấn đấu để xây dựng một số trường đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bố trí liên thông giữa các bậc học, xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu.
1.4.3.   Năng lực thực hiện đầu tư
Năng lực thực hiện đâu tư thể hiện ở quy mô vốn đầu tư phát triển. Quy mô vốn đầu tư là nhân tố có tính chất quyết định đến tất cả hoạt động đầu tư và sử dụng vốn của tất cả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Truyền tải điện nói riêng. Nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau: Vốn tự có, vôn tự huy động, vốn ngân sách, và vốn vay tín dụng. Với một quy mô vốn lớn, có thể giúp doanh nghiệp đầu tư chủ động và có được chất lượng trang thiết bị tốt hơn.
Với một doanh nghiệp Truyền tải điện, hoạt động đầu tư chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: xây mới các trạm, đường dây truyền tải điện, cải tạo, nâng cấp các công trình điện…Quy mô vốn lớn góp phần giúp doanh nghiệp có thể đầu tư cho cơ sở hạ tầng ngành điện quy mô và đồng bộ hơn. Nâng cao năng lực thực hiện sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên do sự đặc biệt trong cơ chế tài chính của công ty nên việc xác định cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào kế hoạch hang năm cũng như từng thời kỳ theo định hướng phát triển của ngành điện cũng như nhiệm vụ giao xuống từ EVN.
1.4.4.  Ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Về nguyên tắc, để đảm bảo thu hút các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, phải đảm bảo nền kinh tế đó trước hết là nới an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Sự ổn định ở đây phải thỏa mãn yêu cầu gắn liền với năng lực tăng trưởng của nền kinh tế hay ổn định trong tăng trưởng. Một số điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến các doanh nghiệp Truyền tải điện
Ổn định giá trị tiền tệ: Đây là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động các nguồn vốn cho đầu tư. Ổn định giá trị tiền tệ ở đây bao hàm cả việc kiềm chế lạm phát và khắc phục tình trạng giảm phát nếu xảy ra với nền kinh tế. Trong cả hai trường hợp đều có tác động đến nhu cầu đầu tư và đến tăng trưởng kinh tế. Để đạt yêu cầu ổn định giá trị tiền tệ cần phải tạo ra sự vận động đồng bộ của các yếu tố của nền kinh tế thị trường bao gồm cả lĩnh vực sản xuất vật chất, hệ thống tài chính và cơ chế phân phối, lưu thông tương ứng.
Lãi suất: Lãi suất không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút nguồn vốn đầu tư thông qua việc tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô mà còn tác động đến dòng chảy của các nguồn vốn đầu tư. Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng cao. Đồng thời cũng có nghĩa chi phí sử dụng vốn trong đầu tư cao hơn. Điều này sẽ làm giảm phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Do đó, về mặt lâu dài cần phải thực hiện chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong mối quan hệ mật thiết với lĩnh vực thu hút đầu tư. Xây dựng hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường, nhằm đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tăng trưởng kinh tế: Đây là một yếu tố vĩ mô có sự ảnh hưởng khá lớn đến việc hoạch định, xây dựng chiến lược phát triển ngành điện nói chung và truyền tải điện nói riêng. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của năng lực sản xuất, sự gia tăng về số lượng các nhà máy sản xuất … điều đó đòi hỏi sự gia tăng lượng điện phục vụ sản xuất.
Có thể thấy, với công ty Truyền tải điện, các yếu tố vĩ mô kể trên đều có tác động rất lớn đến hoạt động của công ty. Với đặc điểm là một doanh nghiệp thực hiện đầu tư phát triển hạ tầng ngành điện, thời gian đầu tư và kế hoạch đầu tư trong khoảng thời gian dài, lượng vốn đầu tư lớn do đó các vấn đề lạm phát và lãi suất ảnh hưởng một cách trực tiếp đến quá trình đầu tư của công ty. Do đó sự ổn định của các yếu tố vĩ mô là điều cần thiết để đảm bảo cho công cuộc đầu tư của công ty diễn ra suôn sẻ và đúng theo kế hoạch, dự toán vốn đầu tư của công ty.
Chất lượng nguồn nhân lực luôn là một trong những nhân tố được quan tâm hang đầu của tất cả các doanh nghiệp. Một nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ đảm bảo được chất lượng tốt của sản phẩm. Với ngành điện, xu hướng hiện đại hóa thiết bị, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến vào các hoạt động của ngành điện nói chung và quá trình vận hành, quản lý lưới điện truyền tải của công ty Truyền tải điện nói riêng, do đó yêu cầu một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn tay nghề cao là một yêu cầu cấp thiết để đảm bảo đủ điều kiện phù hợp với việc áp dụng công nghệ tiên tiến trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Với những người lãnh đạo doanh nghiệp, năng lực của họ góp phần không nhỏ trong việc định hướng sự phát triển, việc thực hiện kế hoạch cũng như quản lý mọi hoạt động của doanh nghiệp nhằm đem lại những lợi ích lớn nhất có thể của doanh nghiệp
Với đội ngũ cán bộ công nhân viên, sự thành thạo trong tay nghề của những người công nhân sẽ làm tăng năng suất lao động, đồng thời cũng hạn chế được những rủi ro trong quá trình làm việc. Từ đó cũng làm tăng năng lực hoạt động và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét