Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Lý luận về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp




·        Khái niệm
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển
Vốn trong định nghĩa về đầu tư phát triển ở đây được hiểu là tất cả các nguồn lực bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài nguyên. Vì thế khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đầy đủ tất cả các nguồn lực tham gia.
Đầu tư phát triển là loại hình đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Hơn nữa hoạt động đầu tư phát triển là tiền đề để thúc đẩy hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Chính vì thế nhà nước cũng như các doanh nghiệp luôn rất chú trọng vào hoạt động đầu tư phát triển.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Có nhiều loại đối tượng đầu tư phát triển tùy theo cách phân chia. Theo phân công lao động xã hội có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Theo tính chất và mục đích đầu tư có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận. Theo mức độ quan trọng đối tượng đầu tư phát triển được chia làm ba nhóm chính là loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại cấm đầu tư. Theo góc độ tài sản, đối tượng đầu tư chia thành 2 nhóm chính là tài sản vật chất (tài sản thực) và tài sản vô hình. Tài sản vật chất ở đây là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động. Tài sản vô hình như phát minh sang chế, uy tín, thương hiệu…
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và tài sản vô hình (những phát minh sáng chế, bản quyền…). Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững của quốc gia, của nhà đầu tư cũng như của toàn thể cộng đồng.
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật  chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của doanh nghiệp, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong doanh nghiệp và trong xã hội.
Nội dung đầu tư phát triển ở phạm vi doanh nghiệp và phạm vi nền kinh tế có thể khác nhau. Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư phát triển phải làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế chứ không phải là hiện tượng chu chuyển tài sản giữa các đơn vị.
·        Phân loại đầu tư phát triển
Có nhiều tiêu thức phân loại đầu tư phát triển
-         Theo bản chất của các đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc, thiết bị…) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học…). Đầu tư cho đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng thêm tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
-         Theo phân cấp quản lý, đầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C. Trong đó, dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, dự án nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
-     Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư, đầu tư phát triển được chia thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật xã hội). Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau.
-     Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được chia thành đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành. Trong đó đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định. Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất – kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp
-     Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội, hoạt động đầu tư phát triển được chia thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (từ 5 năm trở lên), vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao vì tính kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết.
-     Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được chia thành đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn. Đầu tư ngắn hạn là loại đầu tư tiến hành trong một thời gian ngắn, thường do những chủ đầu tư ít vốn thực hiện, đầu tư vào những hoạt động nhanh chóng thu hồi vốn. Đầu tư dài hạn là loại đầu tư xây dựng các công trình đòi hỏi thời gian đầu tư dài, khối lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu. Đó là các công trình thuộc lĩnh vực sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng.
-     Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đầu tư phát triển. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình vận hành kết quả đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên những năng lực phục vụ mới. Đây là loại hình đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tăng thêm việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch
-     Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia, có thể chia đầu tư phát triển thành đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài
-     Theo vùng lãnh thổ có thể chia đầu tư phát triển thành đầu tư phát triển của các vùng lãnh thổ, các vùng kinh tế trọng điểm, đầu tư phát triển khu vực thành thị và nông thôn.
-     Ngoài ra trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế, người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo qui mô và theo các tiêu thức khác nữa.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm sau đây:
·        Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Quy mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn cho hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm.
·        Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
·        Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động của hai mặt, cả tích cực và tiêu cực, của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội… Để thích ứng với đặc điểm này, công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý một số nội dung sau:
Ø     Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vĩ mô và vi mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư trong tương lai, dự kiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án.
Ø     Thứ hai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình.
Ø     Thứ ba, chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
·        Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau:
Ø     Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý… cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên những căn cứ khoa học. Thí dụ, công ty sản xuất thấu kính cần phải nghiên cứu nhu cầu thị trường về thấu kính trong 1 năm là bao nhiêu, có bao nhiêu nhà sản xuất hoạt động trong lĩnh vực này, công suất của những nhà sản xuất khác và thị phần của từng nhà sản xuất, thị phần của công ty trên thị trường là bao nhiêu, từ đó xác định qui mô đầu tư.
Ø     Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý. Để lựa chọn địa điểm thực hiện đầu tư đúng phải dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hóa… Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư cụ thể hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
·        Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất không đạt công suất thiết kế… Ví dụ, để nghiên cứu tính khả thi về mặt thị trường, chủ đầu tư phải nghiên cứu tình hình cung, cầu, giá cả… của sản phẩm dự định đầu tư của dự án. Với mức giá là 10.000 đ/sản phẩm, dự án xây dựng dòng tiền thu, chi và tính được tổng lợi nhuận thuần cả vòng đời dự án. Tổng lợi nhuận thuần càng lớn, quyết định đầu tư càng dễ dàng. Tuy nhiên, nếu khi đi vào hoạt động, giá cả của sản phẩm giảm và chỉ là 5000 đ/sản phẩm, thì trong các điều kiện khác không đổi, tổng lợi nhuận thuần của dự án đạt 50% so với dự kiến ban đầu. Đây là rủi ro giá bán sản phẩm giảm. Như vậy, để quản lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro bao gồm:
Ø     Thứ nhất, nhận diện rủi ro đầu tư. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vậy, xác định được đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hợp để khắc phục.
Ø     Thứ hai, đánh giá mức độ rủi ro. Rủi ro xảy ra có khi rất nghiêm trọng, nhưng có khi chưa đến mức gây nên những thiệt hại về kinh tế. Đánh giá phòng và chống phù hợp.
Ø  Thứ ba, xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro và mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chống tương ứng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại có thể có do rủi ro này gây ra. 
Đầu tư phát triển đóng vai trò quan trọng trong sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Thứ nhất là về sự ra đời của các doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư phát triển là tiền đề để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của doanh nghiệp: xây dựng nhà xưởng, kiến trúc hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị, tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản, thuê mướn nhân công và thực hiện các chi phí khác gắn liền với hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra.
Thứ hai là sự tồn tại của các doanh nghiệp. Sau một quá trình hoạt động, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị sẽ bị khấu hao và hư hỏng. Để duy trì hoạt động thì doanh nghiệp cần phải bảo trì, bảo dưỡng lớn các cơ sở vật chất này hoặc thay thế mới các cơ sở vật chật kỹ thuật đã bị hư hỏng thậm chí phải đổi mới cơ sở vật chất để thích ứng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và phục vụ tốt hơn cho hoạt động đầu tư. Ngoài ra, đầu tư phát triển còn là tiền đề để giúp doanh nghiệp tạo dựng nguồn vốn và uy tín để tiến hành các hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
Thứ ba là sự phát triển của doanh nghiệp. Mục tiêu của các doanh nghiệp là lợi nhuận ngày càng tăng. Muốn thế, trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp phải thường xuyên bỏ thêm vốn để mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, muốn tạo được chỗ đứng vững chắc và không ngừng phát triển thì doanh nghiệp luôn phải tạo ra được những sản phẩm có chất lượng, giá thành rẻ bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng máy móc thiết bị, chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng quản lí hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
Xét về bản chất, nguồn vốn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội
Đứng trên góc độ của doanh nghiệp, nguồn vốn đầu tư cho phát triển trong doanh nghiệp bao gồm hai nguồn chính:
·    Nguồn vốn bên trong
Nguồn vốn bên trong hình thành từ phần tích lũy từ nội bộ doanh nghiệp (vốn góp ban đầu và cổ phiếu, thu nhập giữ lại), phần khấu hao hàng năm
-     Nguồn vốn góp ban đầu: Là nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hình thành từ vốn góp của chủ sở hữu. Nguồn vốn này thể hiện tính tự chủ của doanh nghiệp, và nó đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn khác.
-     Nguồn vốn từ cổ phiếu: Là nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hình thành từ việc huy động vốn của các cổ đông.
-     Nguồn vốn từ thu nhập giữ lại: Lợi nhuận của doanh nghiệp hàng năm thường không được phân chia hết mà được giữ lại trích vào các quỹ và dùng để bổ sung vào nguồn vốn của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động tái sản xuất
-     Ngồn vốn từ quĩ khấu hao hàng năm: Là nguồn vốn được hình thành từ việc trích khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp.
·    Nguồn vốn bên ngoài
Là nguồn vốn hình thành từ việc vay nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư phát triển hoặc phát hành chứng khoán ra công chúng thông qua hai hình thức tài trợ chủ yếu là tại trợ gián tiếp qua các trung gian tài chính (ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng…) hoặc tài trợ trực tiếp (qua thị trường vốn: thị trường chứng khoán, hoạt động tín dụng thuê mua…). Ngoài ra còn có thể huy động nguồn vốn bên ngoài thông qua hoạt động tín dụng thương mại, tuy nhiên nguồn vốn này chỉ tài trợ được một phận nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn của doanh nghiệp.
Mỗi nguồn vốn và mỗi phương thức tài trợ vừa có ưu điểm nhưng cũng có nhược điểm nhất định. Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh mà doanh nghiệp có thể lựa chọn nguồn và phương thức huy động vốn thích hợp
a). Khái niệm TSCĐ:
TSCĐ là những tư liệu sản xuất chủ yếu có giá trị lớn và sử dụng lâu dài, bao gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại, do cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
b) Phân loại TSCĐ: Có hai loại là TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình
TSCĐ hữu hình: là những tư liệu sản xuất chủ yếu có hình thái vật chất thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản hữu hình, có giá trị lớn và sử dụng lâu dài (lớn hơn mức quy định). Trong quá trình sản xuất kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại.
Tài sản cố định hữu hình có các thuộc tính:
- Có hình thái vật chất cụ thể, có thể lượng hoá và xác định được giá trị.
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó vào trong các hoạt động của doanh nghiệp.
- Nguyên giá tài sản được xác định một cách đáng tin cậy.
- Tài sản có thời gian sử dụng lâu dài (trên một năm) hoặc có giá trị lớn (từ trên mười triệu đồng).
TSCĐ vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, có giá trị lớn và sử dụng lâu dài
c). Nội dung đầu tư vào TSCĐ
Đầu tư vàoTSCĐ hữu hình: Bao gồm các hạng mục đầu tư sau:
-     Nhà cửa và vật kiến trúc: Gồm nhà xưởng, kho bãi, văn phòng và các công trình có cùng mục đích. Là tài sản cố định có thời gian khấu hao khá dài, có thể lên đến 50 năm
-     Máy móc thiết bị công nghệ: Bao gồm tất cả các máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền. Là bộ phận tài sản cố định hữu hình có hàm lượng khoa học công nghệ cao và có sự đổi mới nhanh chóng.
-     Phương tiện vận tải: Ngoài chi phi ban đầu chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu xăng dầu chiếm một tỷ trọng đáng kể và cần được tính đến trong quá trình vận hành.
-     Thiết bị và dụng cụ quản lý, thiết bị đo lượng và kiểm định: Đây là những máy móc có giá trị không lớn nhưng được khấu hao trong thời gian dài.
-     TSCĐ khác
Đầu tư vào TSCĐ vô hình: Nội dung đầu tư vào TSCĐ vô hình bao gồm việc đầu tư vào việc mua bán bản quyền phần mềm, quyền phát hành, bản quyền tác giả, bằng phát minh sáng chế…
Đầu tư sủa chữa lớn TSCĐ: Bao gồm các hạng mục đầu tư sau:
-     Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ: sửa chữa các tài sản hư hỏng sau một thời gian sử dụng mà cần vốn lớn.
-     Chi phí nâng cấp TSCĐ: Nâng cấp các TSCĐ cho phù hợp với sự biến động của khoa học công nghệ, giúp cải tiến sản phẩm tăng năng xuất để hạ giá thành, tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cả trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong hoạt động quản lý.
Nguyên nhân cần thiết phải đầu tư vào hàng tồn trữ
Xuất phát từ vai trò của hàng tồn trữ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó được sử dụng để đảm bảo sự ổn định cho sản xuất và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy đầu tư vào hàng tồn trữ là việc không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của hàng tồn trữ có bốn mặt chủ yếu, biểu hiện cụ thể ở bốn chỉ tiêu sau:
·        Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra số lượng lô nhất định, mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành từ tính chu kỳ của số lượng lô được gọi là quay vòng tồn kho.
·        Lượng tồn kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng tồn kho nhất định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn định của nhu cầu và tính không ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có thể dự toán được về sự thay đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số lượng và thời gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng. Số lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn định về nhu cầu và cung ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố xem xét chính khi đưa ra quyết sách về lượng tồn kho dự phòng.
·        Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ chức tiêu thụ gần nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai nơi. Tồn kho vận chuyển được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển.
·        Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của nhu cầu hoặc tính thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc phải sản xuất, tích trữ và bán hàng vào mùa bán ế để duy trì và tăng cường phục vụ khách hàng vào mùa bán hàng chạy, hoặc tăng cường lượng tồn kho của mùa thu hoạch, ví dụ như nông sản, để dự trù sản xuất cho cả năm còn gọi là tồn kho theo thời kỳ. Sự cần thiết của tồn kho theo thời kỳ ngoài nguyên nhân về mùa vụ còn xuất phát từ việc bảo đảm sự ổn định cho sản xuất. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng tồn kho dự định theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi phí tăng thêm khi sản xuất ổn định (chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác…).
Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng tồn trữ được biểu hiện trong mối quan hệ giữa việc khống chế lượng hàng tồn trữ trong kho và hai loại nhu cầu: nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc:
·        Nhu cầu độc lập: Là nhu cầu do thị trường quyết định .Ví dụ như: nhu cầu đối với các các sản phẩm máy in máy fax là bao. Những nhu cầu này lúc nào thì sẽ nảy sinh? mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp của doanh nghiệp, nó được gọi là nhu cầu độc lập. Tuy nhiên với phạm vi dao động và xu hướng thay đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu cầu này có thể dự đoán thông qua những số liệu lịch sử và các nhân tố tương quan khác.
·        Nhu cầu phụ thuộc: Là nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hoặc hạng mục khác quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví dụ như: với một số lượng máy in máy fax cần sản xuất cho trước, thì số lượng nhu cầu về bánh răng nhựa cho các sản phẩm này là bao nhiêu, nó được gọi là nhu cầu phụ thuộc.
Tóm lại: Nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường là nhu cầu độc lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong doanh nghiệp gọi là nhu cầu phụ thuộc, hay còn gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có tính tuỳ cơ ứng biến cho nên chỉ có thể dựa trên dự đoán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có tính xác định, đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự đoán mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính tồn kho của hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tuỳ cơ của nhu cầu độc lập mà ta cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc, về mặt lý thuyết thì không cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất cả những lượng tồn kho sản xuất đều nên ở dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau này đã quy định số lượng từng loại hàng tồn trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất quan trọng của hàng tồn trữ và vấn đề khống chế hàng tồn trữ trong việc quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí, ổn định sản xuất và đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách hàng.
Đầu tư vào hàng tồn trữ có thể có thể được phân thành ba loại chi phí chủ yếu sau:
·    Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi:
Ø Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong tình huống đơn giản hoá, có thể sử dụng tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế.
Ø Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi…
Ø Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi phí về mặt này sẽ có sự chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử tương đối cao, mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn. Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn chiếm đa số tỷ lệ của phí bảo tồn. Vì vậy các doanh nghiệp thường theo thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình thức tỷ lệ thuận với giá cả mua bán của đơn vị hàng tồn.
·    Chi phí đặt hàng:
Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ thuật sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt hàng, đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hàng đặt. Trên lĩnh vực sản xuất, chi phí này là chi phí chuẩn bị sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và tác nghiệp, gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt.
·    Chi phí thiếu hàng:
Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác, và hơn nữa, uy tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản xuất, trong quá trình sản xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo dài thời gian giao hàng và dẫn đến ngưng ca…chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh hưởng của hoạt động tương ứng.
Theo quan điểm hiện đại, có thể hiểu: đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển KHKT là hình thức của đầu tư phát triển nhằm hiện đại hoá dây chuyền công nghệ và trang thiết bị cũng như trình độ nhân lực, tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như cải tiến đổi mới sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đây cũng là hoạt động đầu tư vào lĩnh vực phần mềm của công nghệ như thông tin, thương hiệu và thể chế doanh nghiệp.
Về đầu tư phát triển phần cứng của KHKT-CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động đầu tư phát triển những dây chuyền máy móc, trang thiết bị hiện đại. Trước tiên là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để tiếp nhận dây chuyền máy móc thiết bị mới. Hai là thực hiện đầu tư vào việc nhập khẩu dây chuyền sản xuất phù hợp. Ba là thực hiện việc tiếp nhận công nghệ của dây chuyền máy móc trang thiết bị. Bốn là thực hiện việc nghiên cứu triển khai để có thể sản xuất dây chuyền máy móc dựa vào công nghệ được tiếp nhận.
Về đầu tư phát triển phần mềm của KHKT-CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghệ bao gồm thương hiệu, bí quyết kinh doanh, uy tín…và phát triển cơ cấu thể chế tổ chức.
Về công nghệ cần tiến hành nội dung như sau: doanh nghiệp có thể mua công nghệ theo các cách khác nhau đó là:
·    Mua đứt công nghệ tức là công nghệ thuộc quyền sở hữu độc quyền của doanh nghiệp, doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định về công nghệ đó. Từ đó doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ hiệu quả nhất, tốt nhất, tạo lợi thế cạnh tranh cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực thi điều này là rất khó, mặt khác việc mua đứt công nghệ thường gặp rủi ro lớn vì chưa hẳn công nghệ là tốt nhất. Nếu trong tương lai doanh nghiệp chưa kịp khấu hao hết công nghệ thì đã xuất hiện công nghệ mới tốt hơn…chính vì thế mà người ta thường chỉ mua đứt những công nghệ ít biến động, sản xuất hàng hoá đặc biệt, hay với công nghệ xuất hiện lần đầu trong một loại sản phẩm dịch vụ cấp thiết, nhu cầu thị trường là rất lớn.
·    Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức này bởi hình thức này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chấp nhận đối thủ của mình cũng sở hữu công nghệ như mình và sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng giúp cho doanh nghiệp có những lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó hoặc lợi thế giá thành do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ không có.
·    Doanh nghiệp có thể đầu tư phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu sử dụng công nghệ. Bên cạnh việc nghiên cứu sử dụng các công nghệ mà doanh nghiệp mua bên ngoài, doanh nghiệp còn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra công nghệ mới hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động để duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức, là điều kiện quyết định để doanh nghiệp có thể đứng vững và thắng lợi trong môi trường cạnh tranh. Do đó trong các doanh nghiệp, công tác đào tạo và phát triển cần phải được thực hiện một cách có tổ chức và có kế hoạch.
Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động.
Nguồn nhân lực chính là tài sản quý giá của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm tất cả cán bộ, công nhân, lao động đang làm việc. Nếu như TSCĐ là bộ phận quan trọng hình thành nên năng lực sản xuất của doanh nghiệp, thì có thể coi nguồn nhân lực là bộ phận quyết định đến việc vận hành quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp phải phát huy hiệu quả nguồn nhân lực của mình; đồng thời chú trọng đến việc nâng cao số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực. Đây cũng chính là một nội dung của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong một doanh nghiệp bao gồm các hoạt động: tuyển dụng, đào tạo sử dụng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, Các hoạt động này có thể xen kẽ, có thể tách biệt, có thể trước, có thể sau, tuỳ vào đặc điểm, quy mô của doanh nghiệp.
Thứ nhất là công tác tuyển dụng: Công việc này không đòi hỏi nhiều chi phí, nhưng lại đòi hỏi khâu chuẩn bị hết sức chu đáo, tỉ mỉ bởi mức độ ảnh hưởng của nó đến hoạt động tương lai của doanh nghiệp. Việc chuẩn bị bao gồm từ thông báo tuyển dụng, ấn định các tiêu chuẩn lựa chọn, đến việc xây dựng các phương án phụ trợ cho công tác tuyển dụng (thi trắc nghiệm, thử thách chuyên môn,), lựa chọn ban tham mưu tuyển dụng,
Thứ hai là công tác sử dụng: Công tác này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp biết sử dụng đúng người, đúng việc, phát huy hết khả năng của người lao động thì chắc chắn sẽ đem lại kết quả tốt. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ không phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực, thậm chí lại chịu tác động ngược chiều đến kết quả sản xuất kinh doanh. Công tác sử dụng lao động đòi hỏi ban lãnh đạo phải nắm sâu, nắm sát năng lực của các nhân viên để có thể phân công nhiệm vụ cho phù hợp, tạo môi trường thuận lợi giúp họ phát huy tốt khả năng và góp phần vào sự phát triển của doanh nghiệp.
Thứ ba là công tác đào tạo: Đây là công việc rất quan trọng trong hoạt động đầu tư nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Đào tạo quyết định phẩm chất chính trị, năng lực quản lý, trình độ tay nghề. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều hình thức đào tạo khác nhau như: đào tạo bên ngoài thông qua việc kết hợp với các trường đại học, các trường dạy nghề hoặc thuê các tổ chức chuyên về đào tạo khác đảm trách, hay tổ chức các khoá đào tạo nội bộ. Về đối tượng đào tạo có thể chia làm ba đối tượng: Một là đào tạo cho lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn; hai là đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ; ba là đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân.
Lực lượng cán bộ quản lý trong doanh nghiệp không đông về số lượng nhưng lại có vai trò quyết định đối với sự thành bại của doanh nghiệp, bởi vì quản lý lao động là một công việc không phải bất cứ ai cũng làm được. Quản lý không phải chỉ là một nghề mà thực sự là một nghệ thuật. Trong nền kinh tế thị trường, người quản lý trong doanh nghiệp không chỉ thực hiện những công việc thành tên, mà còn phải năng động, sáng tạo trong những công việc “không tên”, những tình huống khó khăn, nhạy cảm. Do đó, nếu người lãnh đạo, quản lý không học tập, không nâng cao nhận thức, trình độ của mình thì khó có thể đứng vững và đi lên được. Việc đầu tư cho đào tạo cán bộ quản lý thông qua các chi phí cho tham gia hội thảo, tham quan thực tế, đào tạo ngắn hạn, dài hạn nghiệp vụ quản lý, Những chi phí này có thể không lớn nhưng hết sức quan trọng.
Ngày nay, khoa học phát triển như vũ bão, các doanh nghiệp cần phải thích nghi với điều kiện mới để có thể cạnh tranh và vươn lên. Chính vì vậy, đầu tư cho cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật là một nhiệm vụ cấp bách của các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Họ sẽ là người đưa tri thức mới và tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên sự lớn mạnh không ngừng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên bỏ ra một phần thích đáng trong lợi nhuận của mình để đầu tư cho hoạt động này.
Ngoài ra thì tri thức và trình độ tay nghề của người lao động cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Người lao động có trình độ tri thức, có tay nghề cao, kỹ năng thành thạo sẽ sử dụng tốt các loại máy móc, thiết bị tiên tiến, phức tạp; tiếp thu áp dụng tốt công nghệ hiện đại và kinh nghiệm của những người đi trước; đồng thời có thể tự học hỏi, tự thực hành để nâng cao trình độ của chính mình. Cho nên, việc doanh nghiệp chú trọng đầu tư cho đào tạo, đào tạo lại và đào tạo nâng cao tay nghề của công nhân là một tất yếu khách quan.
Ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực mới chỉ sử dụng các biện pháp như: Tìm kiếm lao động đầu vào có chất lượng cao; đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động trong doanh nghiệp; nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Tuy nhiên trong các hình thức trên thì hình thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động được áp dụng nhiều trong các doanh nghiệp nhà nước, còn hình thức lựa chọn lao động đầu vào chất lượng cao được sử dụng nhiều trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Khác với tài sản hữu hình, tài sản vô hình (TSVH) là các tài sản không có hình thái cụ thể, tuy nhiên, nó có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Các TSVH không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng nó gián tiếp tác động, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra nhanh hơn và có hiệu quả hơn. Đầu tư hợp lý vào TSVH đồng nghĩa với việc làm tăng vị thế, danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường, và do đó, có thể làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai.
Các TSVH có thể là bằng phát minh sáng chế, uy tín của doanh nghiệp, bầu không khí làm việc, sự nổi tiếng của nhãn mác, thương hiệu, Đầu tư vào TSVH rất đa dạng nhưng tựu trung lại, cái mà doanh nghiệp nào cũng cần đó là uy tín, vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác, có thể hiểu đó là danh tiếng về tên gọi của doanh nghiệp, của sản phẩm, là lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Hiệu quả do hoạt động đầu tư này đem lại khó lượng hoá một cách chính xác, nhưng nó góp phần lớn vào sự thành công của doanh nghiệp.
Chi phí cho hoạt động này bao gồm: chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí tiếp thị quảng cáo, giao dịch với khách hàng, chi phí cho công tác đối ngoại.
Trong chi phí nghiên cứu thị trường, phải kể đến chi phí cho hoạt động Marketing với chính sách 4P (product, price, place, promotion - sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến hỗn hợp), giúp doanh nghiệp rất nhiều trong việc nắm bắt nhu cầu thị trường, tình hình biến động của thị trường và tình hình của đối thủ cạnh tranh để có chiến lược phát triển phù hợp.
Quảng cáo được coi là cách thức tốt nhất để người tiêu dùng biết đến doanh nghiệp. Phương tiện để thực hiện quảng cáo rất đa dạng, có thể qua đài, báo chí, truyền hình, Mỗi doanh nghiệp cần có một ngân sách đầu tư để trang trải chi phí cho hoạt động này.
Cơ chế thị trường có nhiều mối quan hệ phức tạp, do đó, công tác đối ngoại ngày càng tỏ rõ vai trò của nó. Quan hệ đối ngoại của doanh nghiệp bao gồm: quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, dịch vụ; quan hệ với các cơ quan Chính phủ, các tổ chức chính quyền, Đây không phải là quan hệ hành chính đơn thuần mà công tác này giúp doanh nghiệp nhanh chóng đề xuất những vướng mắc về cơ chế chính sách với cơ quan có thẩm quyền, phối hợp chặt chẽ với bạn hàng vì lợi ích chung, duy trì mối quan hệ lâu dài và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngày nay, các doanh nghiệp có xu hướng khuyếch trương TSVH và tăng cường đầu tư vào TSVH. Đây là một xu thế đúng đắn bởi đầu tư cho TSVH sẽ làm tăng đáng kể doanh thu của doanh nghiệp và sản xuất luôn được mở rộng, uy tín và vị thế của doanh nghiệp được xác lập, doanh nghiệp phát triển một cách vững chắc. Tuy nhiên, việc đầu tư vào TSVH rất đa dạng và phức tạp, vì thế, doanh nghiệp cần phải có chính sách đầu tư phù hợp, tránh đầu tư dàn trải gây lãng phí vốn đầu tư.
·    Khái niệm: Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm chi phí cho công tác xây dựng, chi phí cho công tác mua sắm và lắp đặt thiết bị, chi phí quản lý và chi phí khác theo qui định của thiết kế dự toán và được ghi trong dụa án đầu tư được phê duyệt
·    Phương pháp tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện
Đối với những công cuộc đâu tư có qui mô lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài, vốn đầu tư thực hiện là số vốn đã chi cho từng hoạt động hoặc từng giai đoạn của mỗi công cuộc đầu tư đã hoàn thành.
Đối với những công cuộc đầu tư có qui mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn, vốn chỉ được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi toàn bộ các công việc của quá trình thực hiện đầu tư kết thúc.
Đối với những công cuộc đầu tư do ngân sách tài trợ, tổng số vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi các kết quả của quá trình đầu tư phải đạt các tiêu chuẩn.
·    Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phá huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể dưa vào hoạt động ngay được.
Cần phân biệt các trường hợp huy động bộ phận và huy động toàn bộ
Huy động bộ phận là việc huy động từng đối tượng, từng hạng mục xây dựng của công trình vào hoạt động ở những thời điểm khác nhau do thiết kế qui định
Huy động toàn bộ là việc huy động cùng một lúc tất cả các đối tượng hạng mục xây dựng không có khả năng phát huy tác dụng độc lập hoặc dự án không dự kiến cho phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và sẵn sàng sự dụng ngay.
Nói chung đối với các công cuộc đầu tư qui mô lớn, có nhiều đối tượng, hạng mục xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập thì được áp dụng hình thức huy động bộ phận sau khi từng đối tượng, hạng mục đã kết thúc  quá trình xây dựng, mua sắm, lắp đặt. Còn đối với những công cuộc đầu tư qui mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì áp dụng hình thức huy động toàn bộ khi tất cả các đối tượng, hạng mục công trình đã kết thúc  quá trình xây dựng, mua sắm, lắp đặt
Để đánh giá mức độ đạt được trong quá trình thực hiện đầu tư, cần sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:
-                     Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện của dự án:
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thực hiện vốn đầu tư của từng dự án
-                     Tỷ lệ hoàn thành của hạng mục, đối tượng xây dựng của dự án
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hoàn thành của từng hạng mục, đối tượng xây dựng của dự án
-                     Hệ số huy động tài sản cố định của dự án
Đối với toàn bộ hoạt động đầu tư của cơ sở, ngành hoặc địa phương, chỉ tiêu hệ số huy động tài sản cố định được xác định theo công thức sau:
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đạt được kết quả trực tiếp của hoạt động đầu tư trong số vốn đầu tư đã được thực hiện của dự án, của cơ sở, của ngành hoặc của địa phương.
Tỷ lệ huy động các hạng mục công trình, đối tượng xây dựng của dự án
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ huy động các hạng mục công trình đối tượng xây dựng của dự án
·        Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm:
Là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dùng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các thoạt động dịch vụ theo qui định được ghi trong dự án đầu tư.
Năng lực sản xuất phục vụ được thể hiện ở công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động, mức tiêu dùng nguyên liệu, vật liệu trong một đơn vị thời gian. Với sự gia tăng của năng lực sản xuất phục vụ do các tài sản cố định tạo ra, hoạt động đầu tư phát triển đã mang lại cho các doanh nghiệp mức gia tăng của sản lượng, doanh thu, mang lại cho các ngành, địa phương, vùng và toàn bộ nền kinh tế mức tăng của giá trị sản xuất, mức tăng của giá trị tăng thêm, theo các ngành, mức tăng  của tổng sản phẩm quốc nội, cho các địa phương và cho toàn bộ nền kinh tế.
·Khái niệm hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí bỏ ra để có các kết quả trong một thời kỳ nhất định
·Phân loại hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển
Có nhiều cách phân loại hiệu quả đầu tư phát triển nhưng có một số tiêu thức phân loại chính như sau:
- Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả xã hội và hiệu quả quốc phòng
- Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả, có hiệu quả đầu tư của từng dự án, từng doanh nghiệp, từng ngành, địa phương, và toàn bộ nền kinh tế
- Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội. Hiệu quả tài chính hay được gọi là hiệu quả hoạch toán kinh tế là hiệu quả kinh tế được xem xét trong pham vi một doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế-xã hội của hoạt động đầu tư là hiệu quả tổng hợp được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Vì thế khi đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp, ta chú trọng chủ yếu vào đánh giá hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội
·Nguyên tắc đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển
- Phải xuất phát từ mục tiêu của hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư không thể xem xét  có hiệu quả khi không đạt được mục tiêu đề ra
- Phải xác định tiêu chuẩn hiệu quả để đánh giá hiệu quả đầu tư. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem là thước đo thực hiện các mục tiêu của hoạt động đầu tư
- Khi đánh giá hiệu quả của hoạt dộng đầu tư cần chú ý đến độ trễ thời gian trong đầu tư để phản ánh chính xác các kết quả đạt được và những chi phí đã bỏ ra để thực hiện đầu tư
-   Cần sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư
- Phải đảm bảo tính khoa học và thực tiễn khi đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư
·        Các chỉ số đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư phát triển:
-         Sản lượng tăng thêm so với vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được xác định bằng việc so sánh sản lượng tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu. Nó cho biết một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đã tào ra được bao nhiêu mức tăng của sản lượng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp.
-         Doanh thu tăng thêm so với vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này được xác định bằng việc so sánh doanh thu tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu. Nó cho biết mức doanh thu tăng thêm tính trên một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp
-         Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần (tính cho từng năm) hoặc thu nhập thuần (tính cho cả đời dự án) thu được từ một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng.
Trị số của các chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp càng cao
-         Hệ số huy động tài sản cố định
Chỉ tiêu này được xác định bằng việc so sánh giá trị TSCĐ mới tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trong kỳ nghiên cứu. Nó phản ánh mức độ đạt được kết quả của hoạt động đầu tư trong tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện của doanh nghiệp.
Xét trên góc độ của doanh nghiệp, nhà đầu tư, hiệu quả kinh tế xã hội được xem xét ở các yếu tố sau:
-     Mức đóng góp cho ngân sách (các khoản nộp vào ngân sách khi các kết quả đầu tư bắt đầu hoạt động như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế đất, lệ phí chuyển tiền…) từng năm và cả đời dự án (tổng số và tính bình quân trên một đơn vị vốn đầu tư)
-     Số chỗ việc làm tăng thêm từng năm và cả đời dự án (tổng số và tính bình quân trên một đơn vị vốn đầu tư) hay mức thu nhập tăng thêm so với vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp
-     Số ngoại tệ thực thu từ hoạt động đầu tư từng năm và cả đời dự án (tổng số và tính bình quân trên một đơn vị vốn đầu tư)
-     Tổng chi tiền nội tệ tính trên một đơn vị ngoại tệ thực thu
-     Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư từng năm và bình quân cả đời của dự án
-     Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động: thể hiện ở chỉ tiêu bậc thợ bình quân thay đổi sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư và mức thay đỏi này tính trên một đơn vị vốn đầu tư
-     Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường
-     Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất: thể hiện ở mức thay đổi cấp bậc công việc bình quân sau khi đầu tư so với trước khi ddaauf tư và mức thay đổi này tính trên một đơn vị vốn đầu tư
-     Nâng cao trình độ quản lý của lao động quản lý: thể hiện ở sự thay đổi mức đảm nhiệm quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài sản cố định của lao động quản lý sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư
-     Các tác động đến môi trường sinh thái
-     Đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ

·    Nguồn vốn hay năng lực tài chính: Đây là yếu tố quyết định qui mô của doanh nghiệp, doanh nghiệp muốn xây dựng chiến lược đầu tư ngoài các yếu tố khác thì yếu tố nguồn vốn có tính chất quyết định. Tất cả các hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp đều phải tốn chi phí và căn cứ vào nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay, doanh nghiệp sẽ đưa ra quyết định đầu tư. Ngoài ra, dựa vào cơ cấu sử dụng vốn của mình, doanh nghiệp sẽ đưa ra quyết định đầu tư hợp lý. Vốn tự có của doanh nghiệp bao gồm vốn cổ phần thường, thặng dư vốn từ việc phát hành thêm cổ phiếu, lợi nhuận sau thuế. Vốn vay của doanh nghiệp bao gồm vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác (ngắn hạn và dài hạn) và trái phiếu. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn phải xuất phát từ việc điều chỉnh tỷ lệ nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay trong tổng cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp... Nếu làm phép so sánh giữa việc sử dụng vốn vay với vốn tự có thì rõ ràng mỗi loại nguồn vốn đều có những ưu và nhược riêng. Vì vậy, việc chọn lựa để điều chỉnh tỷ lệ phù hợp phải dựa vào đặc thù riêng của từng doanh nghiệp trong những thời điểm nhất định. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp có chi phí sử dụng vốn thấp, giúp tối đa hoá lợi nhuận để từ đó làm gia tăng giá trị của doanh nghiệp (cấu trúc vốn của doanh nghiệp). Mặt khác, trong việc lựa chọn nguồn vốn, doanh nghiệp có thể ưu tiên cho vốn hóa lợi nhuận giữ lại (mạnh dạn sử dụng lợi nhuận giữ lại, miễn là cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư để họ đồng tình), vốn vay và vốn cổ đông (phát hành thêm cổ phiếu).
Chủ doanh nghiệp phải nắm rõ chi phí sử dụng nguồn vốn của từng loại vốn (dựa trên nguyên tắc phù hợp với cơ cấu của từng doanh nghiệp, ngành nghề, thị trường...). Trên thực tế, không có công thức chung nào cho việc xác định một cơ cấu vốn tối ưu. Việc xác định cơ cấu vốn phù hợp với từng doanh nghiệp phụ thuộc vào 6 yếu tố: rủi ro kinh doanh (sự ổn định hay biến động trong doanh thu), cơ cấu chi phí cố định và biến phí, tài sản cố định (giá trị thế chấp), năng lực khấu trừ thuế thu nhập của doanh nghiệp, quản trị hội đồng doanh nghiệp (đối với công ty cổ phần đại chúng), chất lượng thông tin của doanh nghiệp (gồm kế toán, kế hoạch kinh doanh).
·        Chiến lược phát triển kinh doanh, chiến lược đầu tư của doanh nghiệp: Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là căn cứ để xác định chiến lược đầu tư, do vậy một chiến lược kinh doanh đúng đắn cùng với sự lựa chọn phương án đầu tư phù hợp là điều kiện tiền đề, tiên quyết bảo đảm hiệu quả hoạt động, duy trì và tạo ra các nguồn lực lớn hơn cho doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận, chiến lược đầu tư phát triển kinh doanh, chiến lược đầu tư của doanh nghiệp cũng phải đạt được mục tiêu là lợi nhuận. Nếu lợi nhuận kì vọng của một dự án lớn thì doanh nghiệp sẽ có động lực để đầu tư. Chỉ tiêu về lợi nhuận kì vọng càng lớn thì các doanh nghiệp càng sẵn sàng bỏ vốn ra để đầu tư và ngược lại, lợi nhuận kì vọng bé thì doanh nghiệp sẽ không hứng thú với dự án đầu tư. Tuy nhiên khi xem xét cần phải so sánh lãi suất kì vọng trong mối quan hệ với lãi suất. Nếu lợi nhuận kì vọng nhỏ hơn lãi suất tiền vay thì doanh nghiệp nên gửi tiền vào ngân hàng, vì khi đó họ được lợi nhuận cao hơn mà rủi ro lại thấp hơn.
·        Chi phí tài chính: Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Lãi suất thể hiện giá cả của khoản tiền đi vay và chi phí cơ hội của khoản vốn tự có và nó được tính là chi phí của quá trình đầu tư. Nếu giá vay tiền thực tế cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân doanh nghiệp sẽ cắt giảm qui mô đầu tư và ngược lại, nếu giá vay tiền thực tế thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân thì doanh nghiệp sẽ mở rộng qui mô đầu tư.
·        Chất lượng quản lý hoạt động đầu tư tại doanh nghiệp và chất lượng nhân lực.
Chất lượng quản lý hoạt động đầu tư là nhân tố quan trọng, ảnh hưởng nhiều nhất đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Năng lực quản lý tốt nghĩa là doanh nghiệp thực hiện tốt ở cả giai đoạn chuẩn bị đầu tư, quản lý thực hiện đầu tư và chấp lượng quản lý khai thác vận hành và nhờ đó, sẽ nâng cao chất lượng dự án, tiết kiệm chi phí và từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
Chất lượng nhân lực có quan hệ chặt chẽ đến chất lượng quản lý hoạt động đầu tư tại doanh nghiệp cũng như đến sự thành công của doanh nghiệp. Dù ý tưởng của dự án có tốt nhưng do nhân lực không có trình độ chuyên môn cao, quản lí kém thì dự án cũng khó mà thành công. Doanh nghiệp có tiền thì có thể mua sắm máy móc thiết bị tốt, xây dựng nhà xưởng tiện nghi hiện đại nhưng nếu không có nguồn nhân lực có trình độ tay nghề thì máy móc nhà xưởng cũng không có tác dụng. Chính vì thế, muốn đầu tư cho một dự án, bên cạnh yếu tố về nguồn vốn thì trước hết doanh nghiệp phải xem xét yếu tố nguồn  lực.
·        Nhân tố kinh tế: Tình hình kinh tế chung ở nơi thực hiện dự án có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Các chỉ số kinh tế như tốc độ tăng trưởng, tình trạng lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái, những lợi thế so sánh… đều tác động đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Các chỉ số kinh tế tốt sẽ kích thích và tạo điều kiện để doanh nghiệp duy trì hay mở rộng đầu tư, ngược lại doanh nghiệp sẽ thu hẹp đầu tư để bảo toàn vốn và tránh rủi ro thất thoát.
·        Chính sách của Nhà nước
Doanh nghiệp đầu tư luôn chịu sự điều chỉnh bởi các chính sách kinh tế cũng như những thủ tục hành chính của Nhà nước Trên cơ sở về luật pháp về kinh tế, các chính sách và các biện pháp kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các  doanh nghiệp hoạt động theo quĩ đạo của kế hoạch vĩ mô. Chính sách kinh tế của nhà nước trong mỗi thời kỳ thể hiện sự định hướng của nhà nước đối với doanh nghiệp trong việc đầu tư phát triển kinh doanh. Vì thế mà các chính sách như chính sách thuế, chính sách khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư của Nhà nước luôn ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, thuế là một khoản chi phí. Thuế thấp hay cao sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận ròng của doanh nghiệp (thuế tăng làm chi phí đầu tư tăng, thu nhập của doanh nghiệp giảm và ngược lại). Do vậy thuế trong kinh doanh là nhân tố kích thích hay hạn chế sự đầu tư của doanh nghiệp.
·        Các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội
Trong quá trình xây dựng và triển khai, các dự án đầu tư luôn ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên ở nơi thực hiện dự án không thuận lợi sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thi công cũng như việc vận hành kết quả của dự án.
Về điều kiện văn hóa xã hội, đây là yếu tố ảnh hưởng nhiều và lâu dài đối với dự án. Do đó, doanh nghiệp luôn phải phân tích kỹ lưỡng trước khi đầu tư để tối ưu hóa hiệu quả đầu tư.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét