Giải toán bằng phương pháp qui hoạch động
Phương pháp quy hoạch động cùng nguyên lý tối ưu được nhà toán học
Mỹ R.Bellman đề xuất vào những năm 50 của thế kỷ 20. Phương pháp này đã được áp
dụng để giải hàng loạt bài toán thực tế trong các quá trình kỹ thuật cộng nghệ,
tổ chức sản xuất, kế hoạch hoá kinh tế… Tuy nhiên cần lưu ý rằng có một số bài
toán mà cách giải bằng quy hoạch động tỏ ra không thích hợp.
Trong thực tế, ta thường gặp một số bài toán tối ưu loại sau: Có một
đại lượng f hình thành trong một quá trình gồm nhiều giai đoạn và ta
chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng là giá trị của f phải lớn nhất hoặc
nhỏ nhất, ta gọi chung là giá trị tối ưu của f. Giá trị của f
phụ thuộc vào những đại lượng xuất hiện trong bài toán mà mỗi bộ giá trị của
chúng được gọi là một trạng thái của hệ thống và phụ thuộc vào cách thức
đạt được giá trị f trong từng giai đoạn mà mỗi cách tổ chức được gọi
là một điều khiển. Đại lượng f thường được gọi là hàm mục
tiêu và quá trình đạt được giá trị tối ưu của f được gọi là quá
trình điều khiển tối ưu.
Bellman phát biểu nguyên lý tối ưu (cũng gọi là nguyên lý
Bellman) mà ý tưởng cơ bản là như sau: “Với mỗi quá trình điều khiển tối
ưu, đối với trạng thái bắt đầu A0, với trạng thái A
trong quá trình đó, phần quá trình kể từ trạng thái A xem như trạng
thái bắt đầu cũng là tối ưu”.
Chú ý rằng nguyên lý này được thừa nhận mà không chứng minh.
Phương pháp tìm điều khiển tối ưu theo nguyên lý Bellman thường được
gọi là quy hoạch động. Thuật ngữ này nói lên thực chất của quá trình
điều khiển là động: có thể trong một số bước đầu tiên lựa chọn điều khiển tối
ưu dường như không tốt nhưng tựu chung cả quá trình lại là tốt nhất.
Ta có thể giải thích ý này qua bài toán sau: Cho một dãy N
số nguyên A1, A2,…,AN.
Hãy tìm cách xoá đi một số ít nhất số hạng để dãy còn lại là đơn điệu hay nói
cách khác hãy chọn một số nhiều nhất các số hạng sao cho dãy B gồm các số hạng
đó theo trình tự xuất hiện trong dãy A là đơn điệu.Quá trình chọn B được điều khiển qua N giai đoạn để đạt được mục tiêu là số lượng số hạng của dãy B là nhiều nhất, điều khiển ở giai đoạn i thể hiện việc chọn hay không chọn Ai vào dãy B.
Giả sử dãy đã cho là 1 8 10 2 4 6 7. Nếu ta chọn lần lượt 1, 8, 10 thì chỉ chọn được 3 số hạng nhưng nếu bỏ qua 8 và 10 thì ta chọn được 5 số hạng 1, 2, 4, 6, 7.
Khi giải một bài toán bằng cách “chia để trị” chuyển việc giải bài toán kích thước lớn về việc giải nhiều bài toán cùng kiểu có kích thước nhỏ hơn thì thuật toán này thường được thể hiện bằng các chương trình con đệ quy. Khi đó, trên thực tế, nhiều kết quả trung gian phải tính nhiều lần.
Vậy ý tưởng cơ bản của quy hoạch động thật đơn giản: tránh tính toán lại mọi thứ hai lần, mà lưu giữ kết quả đã tìm kiếm được vào một bảng làm giả thiết cho việc tìm kiếm những kết quả của trường hợp sau. Chúng ta sẽ làm đầy dần giá trị của bảng này bởi các kết quả của những trường hợp trước đã được giải. Kết quả cuối cùng chính là kết quả của bài toán cần giải. Nói cách khác phương pháp quy hoạch động đã thể hiện sức mạnh của nguyên lý chia để trị đến cao độ.
Quy hoạch động là kỹ thuật thiết kế bottom-up (từ dưới lên). Nó được bắt đầu với những trường hợp con nhỏ nhất (thường là đơn giải nhất và giải được ngay). Bằng cách tổ hợp các kết quả đã có (không phải tính lại) của các trường hợp con, sẽ đạt đạt tới kết quả của trường hợp có kích thước lớn dần lên và tổng quát hơn, cho đến khi cuối cùng đạt tới lời giải của trường hợp tổng quát nhất.
Trong một số trường hợp, khi giải một bài toán A, trước hết ta tìm họ bài toán A(p) phụ thuộc tham số p (có thể p là một véc tơ) mà A(p0)=A với p0 là trạng thái ban đầu của bài toán A. Sau đó tìm cách giải họ bài toán A(p) với tham số p bằng cách áp dụng nguyên lý tối ưu của Bellman. Cuối cùng cho p=p0 sẽ nhận được kết quả của bài toán A ban đầu.
2. Các bước thực hiện quy hoạch động
Bước 1: Lập hệ thức
Dựa vào nguyên lý tối ưu tìm cách chia quá trình giải bài toán
thành từng giai đoạn, sau đó tìm hệ thức biểu diễn tương quan quyết định của bước
đang xử lý với các bước đã xử lý trước đó. Hoặc tìm cách phân rã bài toán thành
các “bài toán con” tương tự có kích thước nhỏ hơn, tìm hệ thức nêu quan hệ giữa
kết quả bài toán kích thước đã cho với kết quả của các “bài toán con” cùng kiểu
có kích thước nhỏ hơn của nó nhằm xây dựng phương trình truy toán (dạng hàm hoặc
thủ tục đệ quy).
Về một cách xây dựng phương trình truy toán:
Ta chia việc giải bài toán thành n giai đoạn. Mỗi giai đoạn i có trạng
thái ban đầu là t(i) và chịu tác động điều khiển d(i) sẽ biến thành trạng thái
tiếp theo t(i+1) của giai đoạn i+1 (i=1,2,…,n-1). Theo nguyên lý tối ưu của
Bellman thì việc tối ưu giai đoạn cuối cùng không làm ảnh hưởng đến kết quả
toàn bài toán. Với trạng thái ban đầu là t(n) sau khi làm giai đoạn n tốt nhất
ta có trạng thái ban đầu của giai đoạn n-1 là t(n-1) và tác động điều khiển của
giai đoạn n-1 là d(n-1), có thể tiếp tục xét đến giai đoạn n-1. Sau khi tối ưu
giai đoạn n-1 ta lại có t(n-2) và d(n-2) và lại có thể tối ưu giai đoạn n-2 …
cho đến khi các giai đoạn từ n giảm đến 1 được tối ưu thì coi như hoàn thành
bài toán. Gọi giá trị tối ưu của bài toán tính đến giai đoạn k là Fk
giá trị tối ưu của bài toán tính riêng ở giai đoạn k là Gk
thì
Fk = Fk-1 + GkHay là:
Bước 2: Tổ chức dữ liệu và chương trình
Tổ chức dữ liệu sao cho đạt các yêu cầu sau:
- Dữ liệu được tính toán dần theo các bước.
- Dữ liệu được lưu trữ để giảm lượng tính toán lặp lại.
- Kích thước miền nhớ dành cho lưu trữ dữ liệu càng nhỏ càng tốt, kiểu dữ liệu được chọn phù hợp, nên chọn đơn giản dễ truy cập.
Cụ thể
- Các giá trị của Fk thường được lưu trữ trong một bảng (mảng một chiều hoặc hai, ba, v.v… chiều).
- Cần lưu ý khởi trị các giá trị ban đầu của bảng cho thích hợp, đó là các kết quả của các bài toán con có kích cỡ nhỏ nhất của bài toán đang giải:
- Dựa vào công thức, phương trình truy toán (*) và các giá trị đã có trong bảng để tìm dần các giá trị còn lại của bảng.
- Ngoài ra còn cần mảng lưu trữ nghiệm tương ứng với các giá trị tối ưu trong từng gian đoạn.
- Dựa vào bảng lưu trữ nghiệm và bảng giá trị tối ưu trong từng giai đoạn đã xây dựng, tìm ra kết quả bài toán.
Bước 3: Làm tốt
Làm tốt thuật toán bằng cách thu gọn hệ thức (*) và giảm kích thước
miền nhớ. Thường tìm cách dùng mảng một chiều thay cho mảng hai chiều nếu giá
trị một dòng (hoặc cột) của mảng hai chiều chỉ phụ thuộc một dòng (hoặc cột) kề
trước.Trong một số trường hợp có thể thay mảng hai chiều với các giá trị phần tử chỉ nhận giá trị 0, 1 bởi mảng hai chiều mới bằng cách dùng kỹ thuật quản lý bit.
3. Hạn chế của quy hoạch động
- Việc tìm công thức, phương trình truy toán hoặc tìm cách phân rã bài toán nhiều khi đòi hỏi sự phân tích tổng hợp rất công phu,dễ sai sót, khó nhận ra như thế nào là thích hợp, đòi hỏi nhiều thời gian suy nghĩ. Đồng thời không phải lúc nào kết hợp lời giải của các bài toán con cũng cho kết quả của bài toán lớn hơn.
- Khi bảng lưu trữ đòi hỏi mảng hai, ba chiều … thì khó có thể xử lý dữ liệu với kích cỡ mỗi chiều lớn hàng trăm.
- Có những bài toán không thể giải được bằng quy hoạch động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét