LÝ LUẬN CHUNG
VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Cạnh tranh là sự ganh đua,
sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh với
nhau nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, tiêu
thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (Người
sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với
nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản xuất để có những
điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp cạn tranh:
cạnh tranh giá cả (giảm giá...) hoặc phi giá cả (quảng cáo...).
Cạnh tranh là một hiện
tượng gắn liền với kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh
tế thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh
tranh là môi trường tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh (KD) phát triển
và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các tổ chức, là nhân tố quan trọng làm
lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết
định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi tổ chức. Vì vậy, các tổ chức đều
cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh tranh.
Cạnh tranh có vai trò quan
trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển,
góp phần vào sự phát triển kinh tế. Cụ thể:
+ Sự cạnh tranh buộc người
sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng,
tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến
bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức
tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền
thì thường trì trệ và kém phát triển.
+ Cạnh tranh mang lại
nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách
để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của người
tiêu dùng.
+ Cạnh tranh là tiền đề
của hệ thống free-enterprise vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì
sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói
cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá trị tối ưu nhất đối với
những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
Ngoài mặt tích cực, cạnh
tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội. Cụ thể:
+ Cạnh tranh làm thay đổi
cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo,
có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi
phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ
cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
+ Cạnh tranh cũng có những
tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi
phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại,...)
hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh
thái.
Đầu
tư nâng cao năng lực cạnh tranh là một bộ phận cơ bản của đầu tư phát triển, đó
là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng
thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị...) và tài sản trí
tuệ (tri thức, kỹ năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch
vụ so với các đối thủ, làm duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Trong nghiên cứu có những
cách tiếp cận khác nhau dẫn đến những khái niệm khác nhau về ngân hàng:
- Theo Peter Rose trong
cuốn “ Quản trị ngân hàng thương mại” thì: “Ngân hàng là tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ than toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”
- Theo từ điển tài chính
ngân hàng thì: “NHTM là tổ chức chịu sự điều tiết về luật lệ của một nước hoặc
pháp luật của một nước và thuộc sở hữu của các cổ đông. Ngân hàng có nhiệm vụ
thu nhận tiền gửi, cấp tín dụng và một số loại dịch vụ tài chính khác”
- Theo từ văn bản pháp
luật gần đây nhất của Chính phủ Việt Nam: Điều 20 Nghị định số 49/2000/NĐ-CP
ngày 12/9/2000 định nghĩa: “NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận,
góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Như vậy có thể hiểu NHTM
là tổ chức tài chính trung gian chuyên hoạt động kinh doanh tiền tệ với hoạt
động chính là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác như: bảo lãnh, bảo
hiểm, mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, môi giới chứng khoán, uỷ thác và
tư vấn đầu tư, quản lý ngân quỹ… Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, các
hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú, NHTM trở
thành một định chế tài chính trung gian đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân.
Giống như bất cứ loại
hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các NHTM trong kinh doanh luôn phải
đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các NHTM khác, mà từ tất cả các
tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục tiêu
là để giành giật khách hàng (KH), tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung
ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Đối với các NHTM, cạnh
tranh là sự tranh đua giữa các ngân hàng thông qua rất nhiều phương thức, yếu
tố, hành động để giành phần thắng trên thị trường trong việc thu hút khách
hàng, mở rộng thị phần, xây dựng uy tín, thương hiệu…nhằm đạt được mục tiêu lợi
nhuận cao nhất cho ngân hàng.
Các NHTM cạnh tranh với
nhau trong tất cả các hoạt động: huy động vốn, cho vay, cung cấp dịch vụ ngân
hàng. Và đối thủ cạnh tranh của một NHTM là tất cả các tổ chức kinh tế cung cấp
sản phẩm dịch vụ giống với ngân hàng, chủ yếu là các NHTM, tổ chức tín dụng
khác và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
- Đặc thù của môi trường
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là các đối thủ cạnh tranh có số lượng giới
hạn và sự gia tăng hay giảm bớt số lượng này là rất khó khăn và hạn chế, do
việc cho phép một tổ chức được tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường dịch vụ
ngân hàng đòi hỏi phải tuân thủ một quy trình kiểm soát chặt chẽ với những điều
kiện ngặt nghèo từ phía nhà nước, nhằm tránh cho nền kinh tế và công chúng khỏi
những tổn thất lớn do hoạt động yếu kém, không rõ ràng, minh bạch của các tổ
chức này mang lại và làm cho thị trường trở nên an toàn, lành mạnh hơn.
- Trong cạnh tranh các NHTM phải tuân theo các
nguyên tắc, luật lệ thế giới: Quá trình hội nhập đưa các hoạt động kinh tế thế
giới theo một quỹ đạo chung trên cơ sở các cam kết, hiệp định thương mại. Lĩnh
vực ngân hàng rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của một quốc gia, phạm vi hoạt
động và ảnh hưởng rộng trong khu vực và thế giới, nên các NHTM muốn hoạt động
lành mạnh và phát triển bền vững phải ký kết và tuân thủ những nguyên tắc này.
- Công nghệ là nhân tố
trung tâm của cuộc cạnh tranh giữa các NHTM: Sự cạnh tranh trước hết phải dựa
trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh
tối thiểu; bởi vì, một NHTM mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng
là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các NHTM khác đang hoạt động trong cùng
lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp
ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể
hoạt động được. Như vậy, cạnh tranh giữa các NHTM đòi hỏi và chịu sự chi phối
mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông tin
đóng vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng. Công nghệ đang làm thay đổi hàng ngày phương thức hoạt động,
mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các NHTM. Các NHTM phải thấy được hai khả
năng công nghệ có thể là nhân tố giúp ngân hàng sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh
riêng, mặt khác có thể giúp các đối thủ vuợt trước, dẫn đến nguy cơ tụt hậu cho
ngân hàng mình, để có chiến lược phát triển cho mình. Rõ ràng là, sự cạnh tranh
của các NHTM loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn
bất cứ loại hình kinh doanh nào khác.
-
Các NHTM
cạnh tranh nhau gay gắt nhưng có sự hợp tác với nhau: Sự dễ thay đổi của khách
hàng trong quan hệ giao dịch và đặc điểm dịch vụ ngân hàng có tính tương đồng,
tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao là nguyên nhân làm cho cạnh tranh giữa các
NHTM trở lên quyết liệt. Mặt khác thị trường dịch vụ ngân hàng rất đặc biệt,
không ngân hàng nào có thể hoạt động bình thường nếu không có sự liên kết bình
đẳng và minh bạch với các đối thủ. Các điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ
của các ngân hàng đều có hạn trong khi nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng
cao đòi hỏi các NHTM phải liên kết với nhau trong quá trình tác nghiệp. Đây là
sự liên kết tự nhiên, có tính quy luật và có thể dự báo trước. Trong điều kiện
hội nhập sự hợp tác giữa các NHTM sẽ càng được mở rộng cả về quy mô và chất
lượng.
- Cạnh tranh giữa các
NHTM phải hướng tới thị trường lành mạnh, tránh rủi ro hệ thống: Hoạt động kinh
doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị – xã
hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho
vay cũng như các loại hình dịch vụ (DV) tài chính khác; đồng thời, trong hoạt
động kinh doanh của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục
vụ các đối tượng khách hàng chung. Như vậy, hành vi cạnh tranh của các NHTM có
tính nguy hiểm cao vì uy tín và lợi ích, hoạt động của mỗi ngân hàng có ảnh
hưởng mang tính dây truyền đến hệ thống các quyền lợi khác nhau trong xã hội:
người gửi tiền, người vay tiền, các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Chính vì
vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất
yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các NHTM khác, không những thế,
các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị “vạ lây”. Đây là mối lo thường
trực của cơ quan công quyền có chức năng quản lí cạnh tranh ở mọi quốc gia và
là điều mà các NHTM không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các NHTM trong kinh
doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải
hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh vì mục tiêu tạo an
toàn hoạt động cho toàn hệ thống.
- Cạnh tranh giữa các
NHTM phụ thuộc nhiều vào môi trường bên ngoài: Kinh doanh trong lĩnh vực tiền
tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về
kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá… mỗi một nhân tố này
có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến
môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất
thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong
của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng
thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và
dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM vừa phải cạnh
tranh để từng bước mở rộng KH, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh
tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối
thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ,
thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn
chính NHTM này do tác động dây chuyền.
- Các NHTM cạnh tranh
trên cơ sở có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương: Do hoạt động của các NHTM
có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế – xã hội,
cho nên, để tránh sự hoạt động của các NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống,
tất cả Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị
trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã
chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi
của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền
tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sự cạnh tranh trong
hệ thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau như các
loại hình KD khác trong nền kinh tế. Trong thị trường dịch vụ ngân hàng, mặc dù
Nhà nước khuyến khích sự cạnh tranh nhưng vì mục tiêu giữ ổn định nền kinh tế
và bảo vệ quyền lợi của công chúng, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình
cạnh tranh bằng việc thực thi những chính sách đặc thù như chính sách tiền tệ
hay chính sách kiểm soát đặc biệt. Sự can thiệp này có thể khiến cho giới hạn
cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường dịch vụ ngân hàng có phần bị thu
hẹp, ảnh hưởng đến sự vận hành bình thường của quy luật cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa các
NHTM chịu sự tác động của thị trường tài chính quốc tế: Hoạt động của các NHTM
liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên
quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy, kinh
doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc
tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ
quốc tế… Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM trước
hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ
của các nước... Như vậy, sự mở rộng quan hệ hợp tác và phạm vi hoạt động của
các chủ thể kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng ra thị trường quốc tế làm
cho hoạt động kinh doanh của các NHTM chịu sự ảnh hưởng từ phía đối tác, đồng
thời gắn chặt với các diễn biến về tỷ giá, lãi suất...của thị trường tài chính
quốc tế. Các NHTM phải có các chính kinh doanh và cạnh tranh thích ứng với
những diễn biến của thị trường tài chính quốc tế.
* Cạnh tranh về chất lượng
dịch vụ: Ngày nay, chất lượng hàng hoá là nhân tố quan trọng nhất trong quyết
định tiêu dùng của khách hàng. Các doanh nghiệp muốn đạt mục tiêu kinh doanh
phải nỗ lực nâng cao chất lượng hàng hoá. Hàng hoá mà NHTM cung cấp là các dịch
vụ ngân hàng, nên nâng cao chất lượng dịch vụ là nội dung chính các ngân hàng
sử dụng để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ. Công nghệ phát triển
các ngân hàng đều có cơ hội để nâng cao chất lượng dịch vụ, và khách hàng có
nhiều thông tin, hiểu biết về dịch vụ ngân hàng nên nâng cao chất lượng dịch vụ
là nhân tố quyết định hướng khách hàng quan tâm, sử dụng dịch vụ của ngân hàng,
tạo ưu thế cạnh tranh. Đây là phương thức cạnh tranh lành mạnh và an toàn nhất
cho các NHTM.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng do khách hàng sử dụng đánh giá chủ yếu trên
các mặt: sự đa dạng, các tiện ích đi kèm, tính nhanh chóng, chính xác, an toàn,
tiện lợi của dịch vụ, thái độ phục vụ…Có nghĩa là để nâng cao chất lượng dịch
vụ, ngân hàng phải thực hiện những công việc để tạo ra những dịch vụ có các
tính chất trên tốt hơn so với đối thủ, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách
hàng. Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần quan tâm tới tính độc đáo, riêng biệt
của dịch vụ ngân hàng. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải tạo dựng được cơ sở công
nghệ ngân hàng tốt, đội ngũ nhân lực ưu tú, kết hợp chiến lược thị trường và chiến
lược kinh doanh phù hợp, đúng lúc.
* Cạnh tranh về giá cả: Giá cả dịch vụ ngân hàng chính là lãi suất huy
động vốn, lãi suất cho vay, phí dịch vụ ngân hàng. Yếu tố giá cả, nhất là lãi
suất tác động mạnh đến tâm lý tiêu dùng của khách hàng, hơn nữa đây là lĩnh vực
rất nhạy cảm, sự dịch chuyển nhỏ của giá cả có thể tác động lớn tới quyết định
sử dụng dịch vụ của khách hàng. Do đó cạnh tranh về giá cả là nội dung cạnh
tranh có thể tăng cường rất tốt khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong việc
thu hút khách hàng.
Trong việc xác định mức lãi suất và phí các NHTM phải đối mặt với mâu
thuẫn: nếu ngân hàng quan tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì
các mức lãi suất và phí phải thấp so với mặt bằng trên thị trường, điều này có
nghĩa là thu nhập của ngân hàng sẽ thấp, thậm chí thua lỗ. Ngược lại nếu ngân
hàng chú trọng đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí cao đáp ứng
được mục tiêu tăng thu nhập, điều này lại dẫn đến mức giá cả không cạnh tranh.
Trong khi đó mục tiêu của mọi tổ chức kinh tế trong kinh doanh là tối đa hoá
lợi nhuận, để đạt được điều đó cần tối thiểu hoá chi phí và tối đa hóa thu
nhập. Như vậy cạnh tranh về giá cả có nhiều hạn chế, vì nó làm giảm bớt thu
nhập của các ngân hàng.
*
Cạnh tranh phát triển hệ thống phân phối: Nội dung cạnh tranh này là việc các
ngân hàng đẩy mạnh phát triển hệ thống kênh phân phối và các cách để tiếp cận,
thu hút khách hàng, bao gồm:
- Phát triển kênh phân
phối truyền thống: mở rộng hệ thống các chi nhánh, đại lý, tăng cường hợp tác
với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
- Phát triển kênh phân phối hiện đại: ATM, Home banking, Internet
banking, E Banking…các kênh phân phối hiện đại với ưu thế chi phí giao dịch
thấp, tốc độ thực hiện nhanh, đang dần trở thành xu hướng chung trong kinh
doanh ngân hàng.
- Đẩy mạnh các hoạt động quảng cáo, giới thiệu, cung cấp thông tin về
sản phẩm ngân hàng đến với khách hàng. Thiết lập các kênh thông tin giúp khách
hàng tiếp cận và tìm hiểu về sản phẩm dịch vụ tài chính dễ dàng hơn.
Dịch vụ ngân hàng có đặc
tính nhanh bão hoà, không thể lưu trữ nên việc xây dựng các kênh phân phối rất
quan trọng trong kinh doanh ở các NHTM, để nhanh chóng tiếp cận, đưa dịch vụ
của ngân hàng đến với khách hàng, giúp nắm bắt kịp thời nhu cầu và phản ứng của
khách hàng, nhằm chủ động hoàn thiện sản phẩm dịch vụ.
* Cạnh tranh về loại hình
dịch vụ ngân hàng: Đa dạng hoá dịch vụ tạo ra nhiều lựa chọn, thoả mãn tốt hơn
nhu cầu khách hàng. Qua đó tạo cho ngân hàng lợi thế cạnh tranh. Ngày nay kinh
tế, xã hội phát triển nhu cầu dịch vụ ngân hàng gia tăng nhanh chóng và thường
xuyên thay đổi, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng là nội dung cạnh tranh bắt buộc
các ngân hàng phải quan tâm.
* Cạnh tranh về công nghệ
ngân hàng: Đây là nội dung cạnh tranh vô cùng quan trọng, quyết định tính thành
bại trong kinh doanh của một ngân hàng. Công nghệ làm tăng năng suất lao động,
giảm thiểu chi phí hoạt động cho ngân hàng, mặt khác nâng cao chất lượng, tạo
ra nhiều sản phẩm dịch vụ đa năng cung cấp cho khách hàng. Vì thế các ngân hàng
rất quan tâm đến vấn đề công nghệ của bản thân và đối thủ để có chiến lược đầu
tư phát triển hợp lý.
* Cạnh tranh về uy tín,
thương hiệu: Các NHTM luôn cạnh tranh nhau về uy tín, thương hiệu vì giữ được
chữ tín, tạo dựng được lòng tin, thương hiệu mạnh trong kinh doanh ngân hàng là
những lợi thế rất lớn để giữ khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, nâng cao
khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Mô hình SWOT ra đời từ những năm 60-70 tại Viện nghiên
cứu Stanford, Hoa Kỳ. Đây là phương pháp đánh giá năng lực của doanh nghiệp
thông qua việc xác định, phân tích những điểm mạnh- Strengths và điểm yếu -
Weaknesses, là các yếu tố nội tại của doanh nghiệp; cơ hội – Opportunities và
thách thức - Threats, là các nhân tố bên ngoài của một doanh nghiệp. SWOT cũng
được áp dụng phân tích sức mạnh của đối thủ cạnh tranh. Từ đó giúp cho việc lập
kế hoạch, xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả.
- Điểm mạnh: là các công việc ngân hàng làm tốt hơn so với các đối thủ.
Đó có thể là những điểm mạnh dễ nhận biết như thị phần chi phối, vốn lớn, công
nghệ hiện đại, nhân lực chất lượng cao…và những điểm mạnh chỉ có thể cảm nhận
như khả năng thích ứng, thái độ phục vụ của đội ngũ nhân viên, uy tín thương
hiệu...
- Điểm yếu: là những hạn chế của ngân hàng, những việc ngân hàng làm
không tốt so với các đối thủ. Những điểm này có thể nhận biết hoặc không dễ
nhận biết, ở dạng tiềm ẩn. Có thể nhận biết chính xác nguyên nhân và tác động
của các điểm yếu đến hoạt động kinh doanh sẽ giúp NHTM khắc phục hiệu quả hơn.
- Cơ hội: Có những cơ hội có thể đến môi trường khách quan mang lại,
hoặc do chính ngân hàng tạo ra nhờ vào các điểm mạnh. Các ngân hàng luôn luôn
phải phân tích, tìm kiếm, tận dụng tốt các cơ hội cũng như tạo ra các cơ hội để
thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngân hàng phát triển bền vững.
- Thách thức: là các yếu tố, các nguy cơ tiềm ẩn, những rủi ro mà các
ngân hàng có thể gặp phải làm hoạt động của ngân hàng trở lên khó khăn. Những thách
thức này có thể phát sinh từ bên trong, hoặc
bên ngoài ngân hàng.
Mô hình SWOT thường đưa ra 4
chiến lược cơ bản: SO - các chiến lược dựa trên ưu thế của doanh nghiệp để tận
dụng các cơ hội thị trường; WO - các chiến lược dựa trên khả năng vượt qua các
yếu điểm để tận dụng cơ hội thị trường; ST- các chiến lược dựa trên ưu thế của
của doanh nghiệp để tránh các nguy cơ của thị trường; WT - các chiến lược dựa trên khả năng vượt
qua hoặc hạn chế tối đa các yếu điểm của doanh nghiệp để tránh các nguy cơ của
thị trường, mô tả trong bảng sau:
|
Các điểm mạnh
|
Các điểm yếu
|
Các
cơ
hội
|
Phân tích S-O
Phát huy các điểm mạnh như thế nào để tận dụng
tối đa các cơ hội
|
Phân tích W- O
Khắc phục các điểm yếu như thế nào để tận dụng tốt
các cơ hội
|
Các thách thức
|
Phân tích S-T
Sử dụng điểm mạnh như thế nào để chống lại các
thách thức và thực hiện mục tiêu, nắm bắt các cơ hội
|
Phân tích W-T
Khắc phục điểm yếu như thế nào để chống lại các
thách thức đối với việc thực hiện mục tiêu và theo đuổi cơ hội
|
Việc áp dụng phương pháp SWOT để trong xác định chiến lược đầu tư nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng, cũng như giúp cho nhà quản lý ngân hàng
xây dựng chiến lược cạnh tranh hiệu quả, đòi hỏi chất lượng hoạt động phân
tích, đánh giá các năng lực hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính, công
nghệ.. của ngân hàng và các đối thủ, cũng như các yếu tố môi trường phải tốt,
chính xác.
Môi trường kinh tế có ý nghĩa đối
với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Nếu coi hệ thống ngân hàng như một hệ tuần hoàn
trong một cơ thể sống là nền kinh tế thì hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay
không lại phụ thuộc vào cơ thể sống đó. Cụ thể, bất kỳ một ngân hàng nào cũng
thường quan tâm tới một số chỉ tiêu như: Tốc độ phát triển kinh tế, lãi suất,
tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Một nền kinh tế có tốc độ phát triển cao sẽ
tạo cơ hội cho đầu tư mở rộng hoạt động ngân hàng và ngược lại. Mức lãi suất sẽ
quyết định cho mức cầu của doanh nghiệp. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái
ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, có thể đem lại cho ngân hàng
một vận hội kinh doanh tốt hoặc cũng có thể là nguy cơ phá sản. Tỷ lệ lạm phát
cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thông qua việc ảnh hưởng tới sự
nhiệt tình của các nhà đầu tư đối với các dự án. Nghiên cứu các chỉ tiêu môi
trường kinh tế cũng như chiều hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế là cơ sở
quan trọng để các nhà chiến lược ngân hàng hoạch định về chiến lược đầu tư, đổi
mới của mình.
Một số yếu tố về văn hóa – xã hội có
thể ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, cụ thể nó ảnh
hưởng thông qua việc tác động tới nhu cầu và nguồn nhân lực.
Những đặc điểm xã hội ảnh hưởng tới
nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng, đó là: lòng tin của nhân dân đối với các
ngân hàng, thói quen tiêu tiền và tiết kiệm của người dân, trình độ dân trí và
khả năng hiểu biết về các dịch vụ của ngân hàng, mức thu nhập của người dân...
Có thể nói ngân hàng là ngành kinh
doanh “lòng tin”. Ngân hàng là người giữ tiền cho người dân cũng như các doanh
nghiệp, ngân hàng chính là người giữ hầu bao của nền kinh tế. Nếu ngân hàng
không tạo được niềm tin trong dân chúng thì chắc chắn hoạt động ngân hàng sẽ
không thể tồn tại. Thói quen tiêu dùng của người dân ảnh hưởng rất lớn tới hoạt
động của các ngân hàng, đặc biệt là tập quán sử dụng tiền tệ. Nếu người dân có
thói quen sử dụng tiền mặt nhiều thì rõ ràng ngân hàng sẽ bị hạn chế trong kinh
doanh. Mức tiết kiệm của người dân càng cao càng ảnh hưởng đến nguồn cung ứng
tín dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí càng cao thì khả năng phổ biến các
dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận lợi, dễ dàng và có cơ hooị để đổi mới của
ngân hàng cũng sẽ cao hơn. Mức thu nhập của người dân là yếu tố quyết định tới
nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh đó, một số đặc điểm văn hóa
– xã hội ảnh hưởng tới nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng như: quan điểm
về doanh nhân và kinh doanh, quan điểm về sự giàu có, quan điểm về đạo đức nghề
nghiệp, quan điểm về rủi ro và thất bại...
Ngân hàng là một loại hình doanh
nghiệp. Một đất nước phải coi trọng doanh nghiệp, doanh nhân thì các doanh
nghiệp nước đó mới có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng
còn là một ngành dịch vụ đòi hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ nhất định, sự
thành công của ngân hàng đòi hỏi phải có những cá nhân xuất sắc, có tham vọng
kinh doanh, làm giàu và thăng tiến.
Môi trường tự nhiên có thể nói ảnh
hưởng tới mọi hoạt động của con người, cũng như vậy, ngân hàng là ngành chịu
ảnh hưởng bởi yếu tố này. Môi trường tự nhiên bao gồm: môi trường khí hậu, sinh
thái, dân số, vị trí địa lý – nơi mà ngân hàng có trụ sở.
Môi trường khí hậu ảnh hưởng tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của cá nhân, tổ
chức – khách hàng của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới chính hoạt động của ngân
hànglkuh v jkf nm m.,.
Dân số cũng là một yếu tố rất đáng
quan tâm, các thông tin về tổng dân số tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc dân số... sẽ
giúp ngân hang có thể dự đoán về thị trường hiện tại cũng như tương lai của
ngân hàng. Căn cứ vào những thông tin trên, ngân hàng xác định được đoạn thị trường
mục tiêu của mình để có những chiến lược, chính sách cụ thể cho phù hợp nhằm
nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng đó.
Vị trí các ngân hàng cũng rất quan
trọng, vì một trong những đặc tính của ngành dịch vụ là sản phẩm không nhìn
thấy, chất lượng sản phẩm dịch vụ đó như thế nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố,
cái mà khách hàng nhìn thấy đầu tiên đó là cơ sở hạ tầng của ngân hàng và vị
trí địa lý của nó là một yếu tố rất đáng quan tâm. Một ngân hàng đóng tại vị
trí trung tâm sẽ được nhiều khách hàng biết đến và chiếm được cảm tình ban đầu
của họ.
Chính phủ có vai trò quan trọng đối với bất kỳ một ngành nào, đặc biệt là
ngành ngân hàng - người thủ quỹ của toàn bộ nền kinh tế.
Chính phủ tác động đến sự phát triển
của ngân hàng trước hết với vai trò của người quản lý, giám sát toàn bộ hệ
thống thông qua vai trò của ngân hàng trung ương. Sự hoạt động an toàn và lành
mạnh của các NHTM sẽ là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ở mỗi quốc
gia. Do mối liên kết rất chặt chẽ của toàn bộ hệ thống NHTM, sự sụp vỡ của một
ngân hàng thường gây ra những hậu quả to lớn và có khả năng gây ra hiệu ứng lan
truyền trong toàn bộ hệ thống. Hơn nữa ngành ngân hàng có mối liên hệ mật thiết
với tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, sự đổ vỡ ngành ngân hàng sẽ gây
khó khăn cho tất cả các ngành đó, vì vậy hoạt động của các NHTM phải chịu sự
quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước nói chung và của
Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
Ngoài chức năng của một người quản
lý, giám sát các hoạt động của hệ thống ngân hàng, chính phủ còn là chủ sở hữu,
là “con nợ” và “chủ nợ” lớn, thậm chí lớn nhất của các NHTM. Chính phủ cũng
đồng thời là người hoạch định đường lối phát triển chung của toàn ngành và điều
phối nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Chính phủ có thể có những chính sách tác động đến cung - cầu, đến sự ổn định
kinh tế vĩ mô, đến các điều kiện nhân tố sản xuất, các ngành liên quan và phụ
trợ của ngành ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cũng như có thể kìm hãm sự
phát triển của ngành ngân hàng.
Một trong những đặc điểm quan trọng
của ngành ngân hàng là tất cả các cá nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu
dùng, thậm chí là các ngân hàng khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, vừa là người bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những
người bán sản phẩm thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch
hay cho vay đều có mong muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó
những người mua sản phẩm (vay vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay
vốn nhỏ hơn thực tế. Như vậy, ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa
hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ chân được khách hàng cũng như có
được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể. Điều này đặt ra cho ngân hàng nhiều khó
khăn trong định hướng cũng như phương thức hoạt động trong tương lai.
Về đặc điểm của khách hàng: Khách
hàng của NHTM không phải là khách hàng luôn “trung thành” mà rất dễ bị lôi kéo
và thay đổi quan hệ giao dịch. Mức độ trung thành của khách hàng phụ thuộc vào
sự đối xử của NHTM với họ, mà cao nhất là lợi ích trực tiếp thu được từ quan hệ
giao dịch với ngân hàng. Khách hàng có thể ngay lập tức thay đổi quan hệ với
ngân hàng để tìm mối lợi lớn hơn nếu họ biết rằng mức lãi mà họ nhận được cao
(nếu là sản phẩm bán) và mức lãi suất thấp (nếu là sản phẩm mua) so với ngân
hàng họ quan hệ. Như vậy, sự cạnh tranh của ngân hàng cũng được nhân lên do đặc
điểm khách hàng rất dễ thay đổi quan hệ với ngân hàng.
Đây là những mối lo thường trực của các NHTM trong kinh doanh. Đối thủ
cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của NHTM trong tương lai. Ngoài
ra, sự có của các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng phải thường xuyên quan
tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung ứng để chiến thắng
trong cạnh tranh.
Bên cạnh các nhân tố khách quan tác
động đến năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại, trên thực tế, nhóm
nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực
cạnh tranh của các NH này. Chúng bao gồm:
- Năng lực điều hành của ban lãnh
đạo ngân hàng: Nếu NHTM nào có ban lãnh đạo sáng suốt thì ngân hàng đó sẽ phát
triển đạt được nhiều thành tựu.
- Quy mô vốn và tình hình tài chính
của NHTM: Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới việc mở rộng quy mô của NHTM trong
tương lai.
- Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân
hàng: Công nghệ cho ngành ngân hàng ngày càng trở nên vô cùng quan trọng. Nó
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong việc xử lý các giao dịch.
- Chất lượng nhân viên ngân hàng:
Nguồn nhân lực của ngân hàng luôn là vấn đề đặt ra đối với bất kỳ NHTM nào. Để ngân
hàng có thể phát triển tốt thì cần phải có một bộ máy nhân sự chất lượng.
- Cấu trúc tổ chức: Tổ chức của bộ
máy trong ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các ngân hàng. Một
bộ máy tổ chức gọn nhẹ, linh động, có khoa học sẽ thúc đẩy được sự phát triển
của ngân hàng trong hiện tại và tương lai.
- Danh tiếng và uy tín của ngân hàng
thương mại: Đây là vấn đề xây dựng thương hiệu mà tất cả các NHTM cần thực
hiện. Để một ngân hàng có thể tồn tại và phát triển thì việc xây dựng thương
hiệu, danh tiếng và uy tín là điều cấp bách ngay trong hiện tại và tương lai.
Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài
chính trung gian đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các dịch vụ tài chính
mới cũng như các dịch vụ truyền thống vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các trung
gian này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt và tạo cho
người mua sản phẩm có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân hàng mở rộng
hơn. Điều này tất yếu sẽ tác động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM,
thị phần suy giảm. Ngày nay, người ta cho rằng, khi các NHTM mạnh lên nhờ sự
rèn luyện trong cạnh tranh, thì hệ thống NHTM sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt
hơn sau các cú sốc của nền kinh tế.
Đặc điểm của sản phẩm: Cạnh
tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM bị chi phối bởi các đặc điểm hoạt
động kinh doanh của nó. Sản phẩm chính sử dụng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM là tiền, đó là sản phẩm có tính xã hội và tính nhạy cảm cao, chỉ một biến
động nhỏ (thay đổi lãi suất) cũng có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh
của NHTM nói riêng và hoạt động của toàn xã hội nói chung. Từ đặc điểm này dẫn
đến cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng trở nên quyết liệt. Cạnh tranh giữa các
NHTM là nỗ lực hoạt động đồng bộ của NH trong một lĩnh vực khi cung ứng cho
khách hàng những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao nhằm khẳng định vị trí của
ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy. Có
nghĩa là, chính vì sản phẩm kinh doanh có tính nhạy cảm cao đã làm tăng tính
cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế VN từng bước mở cửa dịch vụ ngân
hàng, nhằm hướng đến xây dựng hệ thống ngân hàng cạnh tranh bình đẳng trên bình
diện quốc tế theo khuôn khổ pháp lý phù hợp và thống nhất. Hơn bao giờ hết sự
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, thách thức đối
với các NHTMVN càng gia tăng khi Chính phủ VN tháo dỡ rào cản đối với các ngân
hàng thương mại nước ngoài (NHTMNNg) và tiến đến xóa bỏ những bảo hộ của Nhà nước
đối với ngân hàng trong nước. Vì vậy, việc đánh giá chính xác đồng thời có
hướng đầu tư thích hợp nhằm nâng cao năng lực và vị thế cạnh tranh của NHTMVN
trong điều kiện hiện nay là yêu cầu cần thiết.
Là
một doanh nghiệp nên đầu tư trong các NHTM mang đặc điểm tương tự như đầu tư
phát triển trong các doanh nghiệp khác, điều này được thể hiện như sau:
- Hoạt
động đầu tư thường kéo dài trong nhiều năm, huy động nhiều nguồn lực kinh tế,
xã hội nên nó thường mang tính rủi ro cao. Do đó, để đảm bảo cho mọi công cuộc
đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị.
-
Hoạt động đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong NHTM đòi hỏi một số vốn lớn
và vốn này nằm khe đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, vì thế nhà đầu
tư phải nghiên cứu để quyết định xem sẽ bỏ đầu tư vào đâu, phương thức huy động
vốn như thế nào, quản lý hoạt động đầu tư ra sao...
-
Trong quá trình thực hiện đầu tư phải chịu tác động của rất nhiều yếu tố: tự
nhiên, pháp lý, kinh tế - xã hội... nên sẽ ảnh hưởng đến kết quả đầu ra, đầu
vào của dự án. Do vậy, kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh trong các NHTM cũng theo đó mà chịu ảnh hưởng của rất nhiều các
yếu tố không ổn định theo thời gian.
- Các
thành quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong các NHTM có
giá trị lâu dài, vì vậy để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đạt được hiệu quả kinh
tế xã hội cao cần phải làm tốt giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Nguồn
vốn đầu tư của ngân hàng được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu (vốn hình
thành từ ban đầu) và nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động (lợi nhuận
chưa phân phối, các quỹ...).
* Nguồn vốn hình thành ban đầu (vốn
chủ sở hữu)
Tùy
theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau.
Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước, ngân sách nhà nước cấp vốn. Nếu là ngân hàng cổ phần, các
cổ đông góp vốn thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Nếu là ngân hàng liên
doanh do các bên góp, ngân hàng tư nhân là thuộc sở hữu tư nhân.
* Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt
động
Trong
quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương cách khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể:
-
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng
có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành
vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy
và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ
lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
-
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để mở rộng quy
mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng
vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định... Đặc điểm của hình thức huy động
này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu
lớn vào lúc cần thiết.
* Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng.
Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng năm và được
tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ thặng dư là phần đánh giá
lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi
phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng
còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng...
Các
quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này từ
thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, một số quỹ Ngân hàng không thể sử dụng lâu
dài.
* Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ
phần:
Các
khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân
hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà
cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Hoạt
động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung, tùy thuộc theo cách tiếp cận.
Căn cứ vào nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư những tài sản vật chất
(Đầu tư phát triển mạng lưới, đầu tư phát triển các sản phẩm dịch vụ...) và đầu
tư những tài sản vô hình (Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đầu tư phát triển
thương hiệu...) thì đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong NHTM bao gồm
những nội dung sau:
Đầu tư phát triển mạng
lưới trong NHTM là việc mở rộng quy mô ngân hàng, mở rộng thêm các chi nhánh,
các phòng giao dịch trên các thị trường đã được khảo sát.
Việc phát triển mạng lưới
nhằm mục đích mở rộng thị trường thu hút thêm nhiều khách hàng mới, tạo điều
kiện tốt nhất để khách hàng thuận tiện trong việc giao dịch với ngân hàng, từ
đó làm tăng doanh tu, tăng lợi nhuận, nâng cao uy tín, thương hiệu và sức cạnh
tranh trên thị trường.
Nội dung đầu tư này là
việc các ngân hàng đẩy mạnh phát triển hệ thống kênh phân phối và các cách để
tiếp cận, thu hút khách hàng, bao gồm:
- Phát triển kênh phân
phối truyền thống: mở rộng hệ thống các chi nhánh, đại lý, tăng cường hợp tác
với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Mạng lưới kênh phân phối rộng khắp đó là giải
pháp tạo sự thuận tiện cho khách hàng mà bước đầu thành lập phần lớn các ngân
hàng đều sử dụng. Đặc điểm của loại kênh phân phối này là hoạt động của nó dựa
trên lao động trực tiếp của nhân viên ngân hàng. Cần lưu ý việc mở rộng mạng
lưới theo địa lý cần phải được tính toán một cách kỹ lưỡng, cần phải phân tích,
cân đối giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được bởi nó làm tăng chi phí của ngân
hàng như chi phí thuê địa điểm, trả lương nhân viên....
- Phát triển kênh phân
phối hiện đại: ATM, Home banking, Internet banking, E Banking…các kênh phân
phối hiện đại với ưu thế chi phí giao dịch thấp, tốc độ thực hiện nhanh, đang
dần trở thành xu hướng chung trong kinh doanh ngân hàng. Hiện tại, các ngân
hàng cũng đã triển khai việc cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng ở một số kênh
giao dịch hiện đại internet banking, mobile banking, ATM, POS…, song các kênh
phân phối này còn khá mới mẻ với đại đa số người dân, mặt khác khả năng công
nghệ, vận hành công nghệ và sự kết nối công nghệ phục vụ việc phân phối sản
phẩm dịch vụ chưa thực sự tốt nên chưa phát huy được ưu điểm của các phân phối
hiện đại. Do đó thời gian tới, các ngân hàng cần phát triển các kênh phân phối
hiện đại theo hướng mở rộng ứng dụng và quy mô của các kênh phân phối này, nâng
cao chất lượng và phát triển thêm các kênh phân phối, giao dịch hiện đại nhằm
tiết kiệm chi phí, thời gian, tạo an toàn cho khách hàng. Mặt khác phát triển
rộng các kênh phân phối hiện đại giúp quảng bá rất tốt hình ảnh của ngân hàng,
quan trọng nhất là tạo khả năng phục vụ được một số lượng lớn khách hàng ở mọi
lúc, mọi nơi, vì các kênh phân phối hiện đại có ưu điểm là không cần có nhân
viên thực hiện trực tiếp, hơn nữa tốc độ xử lý nhanh có thể thực hiện khối
lượng lớn các giao dịch chỉ trong một thời gian ngắn.
Bất cứ NHTM nào cũng coi
việc phát triển mạng lưới là một biện pháp quan trọng để giữ vững thị phần và
nâng cao hiệu quả hoạt động và thực hiện định hướng NH bán lẻ. Tuy nhiên, hoạt
động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư
phát triển của NHTM. Việc thành lập chi nhánh mới căn cứ theo quy định đối ứng
vốn điều lệ; theo đó, tổng số chi nhánh ngân hàng thương mại đã mở và đề nghị
mở phải đảm bảo vốn điều lệ của ngân hàng đáp ứng trên mức 100 tỷ đồng/chi
nhánh nếu chi nhánh được mở tại TP. HCM và Hà Nội (trước đây là 20 tỷ đồng/chi
nhánh); trên mức 50 tỷ đồng/chi nhánh nếu chi nhánh được mở tại các đơn vị hành
chính khác (trước đây là 10 tỷ đồng/chi nhánh) (theo Quyết định số
13/2008/QĐ-NHNN ngày 29/04/2008 của Ngân hàng Nhà nước). Mục đích của việc quy
định này là đưa ra những tiêu chí rõ ràng và chặt chẽ để “khuôn” ngân hàng hoạt
động theo hướng an toàn hơn, lành mạnh hơn. “Mở rộng mạng lưới phải gắn với
thực lực tài chính, phải đảm bảo các điều kiện về an toàn kho quỹ, hệ thống
mạng... Cùng với việc mở thêm chi nhánh không để vượt quá năng lực vốn và khả
năng điều hành.
Trong lĩnh vực ngân hàng
thì việc áp dụng công nghệ là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh cạnh
tranh của các NHTM. Để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng mọi
yêu cầu của khách hàng thì nhu cầu công nghệ là vô cùng quan trọng, quyết định
tính thành bại trong kinh doanh của một ngân hàng. Công nghệ sẽ góp phần tạo
nên những chuyển biến mang tính độc đáo và tiện ích hơn, nó giúp các NHTM tăng
năng suất lao động, giảm thiểu chi phí hoạt động cho ngân hàng, mặt khác nâng
cao chất lượng, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ đa năng cung cấp cho khách hàng.
Vì thế các ngân hàng rất quan tâm đến vấn đề công nghệ của bản thân và đối thủ
để có chiến lược đầu tư phát triển hợp lý. Ngày nay, các NHTM đang triển khai phát
triển những sản phẩm ứng dụng công nghệ cao, và sử dụng các sản phẩm dịch mang
tính chất công nghệ làm thước đo cho sự cạnh tranh, đặc biệt là trong lĩnh vực
thanh toán và các sản phẩm dịch vụ điện tử khác.
Trong diễn đàn quốc tế
“banking vietnam” khẳng định việc sử dụng công nghệ thông tin là công cụ chính
để khẳng định năng lực cạnh tranh của các NHTM, sự phát triển các sản phẩm dịch
vụ E-banking là xu hướng thời thượng, công nghệ là yếu tố tạo nên sự khác biệt
giữa các NHTM trong kinh doanh.
Thực tế đã cho thấy rằng,
trong nền kinh tế ngày nay, lòng trung thành của khách hàng phụ thuộc vào thời
gian đáp ứng, tính an toàn và chất lượng dịch vụ. Đối với các dịch vụ tài
chính, các yêu cầu này đang ngày càng phụ thuộc vào hệ thống công nghệ thông
tin (CNTT). Một trong những tiêu chuẩn là doanh nghiệp phải có một hệ thống hạ
tầng CNTT được xây dựng thống nhất, đáp ứng được nhu cầu mở rộng và cấu trúc
sao cho có thể triển khai các ứng dụng khác nhau một cách nhanh chóng, chính
xác, khoa học và thuận tiện. Ngoài ra, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày
càng phát triển, sẽ rất khó khăn cho NHTM nào không vận dụng công nghệ vào
trong việc quản trị. Chính vì vậy, các NHTM không ngừng cải tiến, đầu tư cho
phát triển các công nghệ hiện đại nhất vào quá trình quản trị: quản trị rủi ro,
quản trị nhân lực, quản trị dịch vụ; nâng cấp công nghệ; bảo mật dữ liệu; Quản
lý quy trình kinh doanh: gồm các phương pháp, kỹ thuật và công cụ để thiết kế,
thực hiện, kiểm soát và phân tích các quy trình kinh doanh liên quan đến con
người, các tổ chức, các ứng dụng và các nguồn thông tin khác. Đối với ngân hàng
giảm thiểu được tối đa rủi ro, còn đối với khách hàng thì đáp ứng được nhu cầu
tối đa của khách hàng.
Đóng góp vào những thành
tựu của hệ thống ngân hàng trong 20 năm qua, không thể không kể đến vai trò của
việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng trong các lĩnh vực hoạt
động của ngành Ngân hàng:
- Hạ tầng công nghệ thông
tin phục vụ cho hoạt động của NHNN không ngừng được cải thiện, góp phần không
nhỏ vào việc tăng cường hiệu quả trong thực hiện CSTT quốc gia, năng lực thanh
tra giám sát, đảm nhận ngày càng tốt hơn vai trò trung tâm thanh toán của nền
kinh tế. Hệ thống dữ liệu của cả hệ thống ngân hàng đã được tin học hóa, kết
nối với cả hệ thống, cung cấp thông tin hàng ngày cho NHNN, làm cơ sở hoạch
định và thực thi các chính sách quản lý.
- Hệ thống corebanking (hệ
thống quản trị ngân hàng tập trung) đã được ứng dụng phổ biến ở phần lớn các
ngân hàng, giúp cải thiện đáng kể hiệu quả của hoạt động nội bộ ngân hàng như
kế toán thanh toán, quản trị rủi ro, đánh giá xếp hạng tín dụng khách hàng...;
các dữ liệu trong hoạt động được nối mạng trực tuyến giữa các Phòng, Ban tại
trụ sở chính, Chi nhánh đảm bảo kiểm soát, phát hiện kịp thời các vấn đề phát
sinh trong hoạt động. Ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời còn giúp các TCTD
hiện đại hóa hệ thống thanh toán, đa dạng hóa hình thức huy động vốn, cho vay,
với những sản phẩm tiện ích ngân hàng hiện đại, cung ứng cho doanh nghiệp và
dân cư, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua
ngân hàng.
Có thể nói, công nghệ
thông tin được xem như một xu hướng chính trong hoạt động ngân hàng hiện đại
thập niên vừa qua, các giải pháp kỹ thuật công nghệ được lựa chọn là phù hợp đã
bảo đảm cho sự phát triển công nghệ tin học ngân hàng đúng hướng, là yếu tố
giúp các ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm
dịch vụ, chiếm lĩnh thị phần bằng các thiết bị giao dịch tự động, tăng cường
năng lực và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại; đẩy
nhanh tốc độ thanh toán, tăng vòng quay tiền tệ, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả đồng vốn xã hội. Xu hướng mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin và phát
triển các giao dịch ngân hàng điện tử đã góp phần nâng cao năng lực quản lý,
điều hành của NHNN.
Việc áp dụng công nghệ vào
trong lĩnh vực tài chính ngân hàng góp phần quan trọng trong việc tồn tại và
phát triển của các NHTM. Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước và sự phồn
thịnh ngân hàng, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ ngày
càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của ngân hàng.
Đầu tư phát triển các sản
phẩm dịch vụ là sự nghiên cứu, tìm tòi phát triển thêm các sản phẩm, dịch vụ
mới đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng phù hợp với cơ chế thị trường.
Đối
với bất kỳ tổ chức nào việc đưa ra những sản phẩm mới có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự phát triển của tổ chức đó. Với những sản phẩm đáp ứng tốt nhất
lợi ích của khách hàng sẽ làm tăng doanh thu, tăng thị phần, tăng lợi nhuận của
tổ chức đó.
Trong
điều kiện cạnh tranh khốc liệt trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng như hiện
nay thì việc đầu tư phát triển các sản phẩm mới quan trọng hơn bao giờ hết.
Ngân hàng sẽ thu hút nhiều khách hàng
với một sản phẩm, dịch vụ mới ra đời. Đồng thời
cũng có sự dịch chuyển khách hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác
vì các sản phẩm, dịch vụ tốt hơn.
NHTM
là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với nhiều hoạt động, sản phẩm dịch vụ đa
dạng, có thể tổng hợp những sản phẩm dịch vụ đó theo ba nhóm cơ bản, đó là:
hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động cung cấp dịch vụ tài
chính, vì vậy phát triển sản phẩm dịch vụ cần phải đồng bộ các sản phẩm:
- Đầu tư phát triển các sản phẩm tiền gửi như:
Tiền gửi không kỳ hạn (Tiền gửi thanh toán) - tiền gửi của dân cư và các tổ
chức; Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức; Tiền gửi tiết kiệm của dân cư...
- Đầu
tư phát triển các hoạt động huy động vốn khác: Phát hành giấy tờ có giá (Trái
phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi...); Nguồn vốn không phải trả lãi như:
nguồn ủy thác, nguồn bảo lãnh thanh toán, mở thư tín dụng...
- Đầu
tư phát triển các sản phẩm tín dụng: Là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn
cho người khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc và lãi. Cho
vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng. Có rất
nhiều loại hình cho vay khác nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư và các doanh
nghiệp như cho vay dài hạn, trung hạn... NHTM cần đầu tư nâng cao khả năng đáp
ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng với đa dạng các hình thức, đây là mục tiêu
sống còn của các NHTM giai đoạn hiện nay.
- Đầu
tư vào các dịch vụ tài chính trung gian: Chuyển tiền “Ngân hàng thực hiện theo
lệnh chuyển tiền của khách hàng tới đối tượng thụ hưởng”; Thanh toán không dùng
tiền mặt “Các hình thức này ngày càng đa dạng như thanh toán bằng thẻ, séc, ủy
nhiệm thu, ủy nhiệm chi...”
- Đầu
tư phát triển các dịch vụ ủy thác và tư vấn: Các ngân hàng có nhiều chuyên gia
về quản lý tài chính, vì vậy ngân hàng nhận tư vấn về quản lý tài sản và tài
chính cho các cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu.
- Đầu
tư vào dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác, một số ngân hàng thành
lập ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch
vụ này.
- Đầu
tư vào dịch vụ bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một số khách
hàng là rất lớn đồng thời nắm giữ tiền gửi của khách hàng.
Ngoài ra, chất lượng dịch
vụ cũng luôn là vấn đề quan tâm của mọi khách hàng và của mọi ngân hàng. Chất
lượng dịch vụ ngày nay trở thành một lợi thế cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn
đối với mọi NHTM.
Chất lượng dịch vụ luôn
được đánh giá theo quan điểm của khách hàng. Nó thể hiện qua sự tin tưởng, cảm
tình, ưa thích của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng. Như vậy, chất lượng
dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ.
Ngoài ra, đối tượng kinh doanh của các NHTM là tiền tệ, nên chất lượng dịch vụ
không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng phục vụ của nhân viên ngân hàng mà
còn được đánh giá thông qua độ an toàn chính xác trong xử lý nghiệp vụ, tính
đơn giản, thuận tiện trong giao dịch và khoảng thời gian cần thiết để có thể
hoàn tất một giao dịch.
Trong xu hướng hồi nhập
kinh tế toàn cầu, các NHTM Việt Nam đang đứng trước nhiều vận hội lẫn thách
thức. Làm thế nào để tạo ra ưu thế cạnh tranh để tồn tại và phát triển khi tất
cả các đối thủ đều tận dụng triệt để công thức: Sản phẩm - Giá cả - Hệ thống
phân phối - Quảng bá khuyến mại? Và câu trả lời là con người, nhất là con người
có năng lực quản lý sẽ là nhân tố cạnh tranh vô cùng quan trọng. Có thể nói rằng:
Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh
của bất kỳ doanh nghiệp nào là vai trò của những người lãnh đạo doanh nghiệp,
những quyết định của họ có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp.
Năng lực quản trị, kiểm
soát và điều hành của nhà lãnh đạo trong ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo
tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là
yếu tố then chốt để ngân hàng có một chiến lược kinh doanh đúng đắn trong dài
hạn. Thông thường đánh giá năng lực quản trị, kiểm soát, điều hành của một ngân
hàng người ta xem xét đánh giá các chuẩn mực và các chiến lược mà ngân hàng xây
dựng cho hoạt động của mình. Hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo
thời gian và khả năng vượt qua những bất trắc là bằng chứng cho năng lực quản
trị cao của ngân hàng.
Năng lực quản trị phản ánh
năng lực điều hành của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc của một ngân
hàng. Năng lực quản trị thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội
đồng quản trị đối với Ban giám đốc cũng như đối với việc duy trì và nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngân hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với
Ban giám đốc; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược,
chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm
toán, kiểm soát nội bộ. Năng lực quản trị quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn
lực của ngân hàng. Một Hội đồng quản trị hay một Ban giám đốc yếu kém, không có
khả năng đưa ra một chính sách, chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi
của thị trường.. sẽ làm lãng phí các nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh
tranh của ngân hàng đó.
Năng lực quản trị của Hội
đồng quản trị cũng như Ban giám đốc bị chi phối bởi cơ cấu tổ chức của NHTM. Cơ
cấu tổ chức là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực
của một ngân hàng có phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng; phù
hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Sự
phù hợp thể hiện ở sự phân chia phù hợp nhiệm vụ và quyền hạn của các phòng ban
chức năng, các bộ phận quản lý và tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc, vừa có
tính liên kết, hỗ trợ và mức độ phối hợp giữa các bộ phận này trong việc triển
khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày và khả năng thích
nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động. Cơ cấu tổ chức có khả năng
phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên cao sẽ giúp ngân hàng thực hiện
hiệu quả các công việc và tiết kiệm chi phí hoạt động.
Cơ cấu tổ chức của ngân
hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng, ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp,
các đơn vị trực thuộc... Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh ở số
lượng phòng ban sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban mà còn phụ thuộc vào
mức độ phối hợp trong việc triển khai chiến lược kinh doanh các hoạt động
nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi cơ cấu trước những biến
động của ngành hay những biến động trong môi trường vĩ mô...
Trong một doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ như NHTM thì yếu tố con người có vai trò quan trọng trong
việc thể hiện chất lượng của dịch vụ. Đội ngũ nhân viên của ngân hàng chính là
người trực tiếp đem lại cho khách hàng những cảm nhận về ngân hàng và sản phẩm
dịch vụ của ngân hàng, đồng thời tạo niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng.
Đó chính là những đòi hỏi quan trọng đối với đội ngũ nhân viên ngân hàng, từ đó
giúp ngân hàng chiếm giữ thị phần cũng như tăng hiệu quả kinh doanh để nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình.
Như vậy, chất lượng nguồn
nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đối với năng lực cạnh tranh của
một NHTM. Chất lượng nguồn nhân lực là kết quả của sự cạnh tranh trong quá khứ đồng thời lại chính
là năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong tương lai. Có một đội ngũ cán bộ
thừa hành và nhân viên giỏi, có khả năng sáng tạo và thực thi chiến lược sẽ
giúp ngân hàng hoạt động ổn định và bền vững. Có thể khẳng định nguồn nhân lực
đủ về số lượng và đầy về chất lượng là
một biểu hiện năng lực cạnh tranh cao của NHTM. Các NHTM cần có phương
pháp đầu tư cho công việc này một cách bài bản, hệ thống như một tầm nhìn dài
hạn xuyên suốt các hoạt động khác nhau, hoạch định kế hoạch, gắn kết đồng bộ
giữa các hoạt động khác nhau...
Đầu
tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là đầu tư nâng cao trình độ chuyên
môn, tay nghề và kỹ năng hành nghề, bồi dưỡng tinh thần chấp hành kỷ luật, giáo
dục nâng cao nhận thức về văn hóa ứng xử trong công việc, xây dựng ác phong làm
việc hiện đại và chuyên nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên. Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực là cơ sở để cải thiện tất các các công cụ cạnh tranh sản
phẩm, chất lượng sản phẩm và giá bán sản phẩm giúp việc tổ chức cung ứng dịch
vụ tốt hơn, từ đó cải thiện công cụ cạnh tranh, tiêu thụ sản phẩm... Đồng thời
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng là tiền đề quan trọng giúp các hoạt
động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh khác của NHTM đạt hiệu quả cao hơn.
Chi phí đào tạo nguồn nhân
lực trong ngân hàng được tính vào chi phí đầu tư cho phát triển của ngân hàng. Hiệu quả đào tạo
được coi là tiêu chí để đánh giá hiệu quả đầu tư. Thước đo hiệu quả của một
chiến lược đào tạo nhân lực là chi phí về tài chính, thời gian thấp nhất và khả
năng ứng dụng cao nhất. Vì vậy, mỗi quyết định đầu tư cho đào tạo nhân lực đều
có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến năng lực cạnh tranh, lợi nhuận của mỗi
ngân hàng.
Ngày ngay, các định chế Ngân hàng
hoạt động trong sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh và cuộc
chiến giành giật thị trường diễn ra ngày càng khốc liệt cả ở trong và ngoài
nước, điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải lựa
chọn lại cấu trúc và điều chỉnh cách thức hoạt động cho phù hợp với môi
trường, nâng cao khả năng khám phá cơ hội kinh doanh và vị thế cạnh tranh. Điều
này chỉ được thực hiện tốt một khi đầu tư đúng hướng vào marketing.
Chiến lược Marketing là một chiến
lược hành động toàn diện, được hình thành nhằm đáp ứng các đòi hỏi của một
doanh nghiệp đang hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh và ở thị trường cụ
thể xác định. Chiến lược Marketing bao gồm việc lựa chọn các mục tiêu thị
trường và các phương pháp đạt được mục tiêu đó, đó chính là đầu tư cho
Marketing để đạt được mục tiêu thị trường .
Đầu tư vào hoạt động marketing của
ngân hàng trong nền kinh tế thị trường tập trung vào 02 nội dung cơ bản:
- Tổ chức nghiên cứu môi trường kinh
doanh ngân hàng: Nghiên cứu môi trường vĩ mô: môi trường địa lý, môi trường dân
số, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa - xã hội, môi trường chính trị -
pháp luật và môi trường kỹ thuật công nghệ; Nghiên cứu môi trường vi mô: các
yếu tố nội lực ngân hàng như vốn tự có và khả năng phát triển của nó, hệ thống
mạng lưới phân phối...; các đơn vị hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng, đó là các
công ty tư vấn, quảng cáo, tin học...; Khách hàng của ngân hàng, đối thủ cạnh
tranh...
- Hệ thống thông tin nghiên cứu môi
trường kinh doanh: Hệ thống thông tin nội bộ như báo cáo thống kê, kế toán tài
chính, báo cáo của các nhà quản lý ngân hàng, báo cáo thanh tra, kiểm tra...;
Hệ thống thông tin bên ngoài được hình thành từ các nguồn: các loại báo, tạp
chí chuyên ngành, hệ thống thông tin truyền thanh, truyền hình; Các báo cáo
thường niên của khách hàng và công ty...
Vốn chủ sở hữu của NHTM là toàn bộ nguồn vốn thuộc
sở hữu của ngân hàng, của các thành viên trong đối tác liên doanh hoặc các cổ
đông trong ngân hàng, kinh phí quản lý do các đơn vị trực thuộc lập nên.
Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các
quỹ dự trữ bổ sung và các tài sản khác. Quy mô vốn chủ sở hữu có thể thay đổi
trong quá trình hoạt động của NHTM.
Về mặt lý thuyết, vốn chủ sở hữu đang đóng vai trò
rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Hoạt động ngân hàng gặp rất nhiều rủi
ro do chịu tác động lớn từ môi trường kinh tế và đối tượng khách hàng đa dạng,
vốn chủ sở hữu là nguồn tài chính quan trọng hàng đầu để chống đỡ các rủi ro.
Đây là nguồn vốn quan trọng dùng để đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng
vì nó cung cấp tài chính cho các hoạt động kinh doanh của NHTM, quyết định sức
mạnh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong tất cả các hoạt động. Vốn chủ
sở hữu cao sẽ giúp ngân hàng tạo được uy tín trên thị trường và tạo lòng tin
nơi công chúng. Vốn chủ sở hữu thấp đồng nghĩa với sức mạnh tài chính yếu và
khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng thấp. Cụ thể:
- Đối với hoạt động huy động vốn: vốn tự có lớn
tạo niềm tin cho khách hàng do có chức năng bảo vệ người gửi tiền nên được
khách hàng lấy làm căn cứ khi lựa chọn ngân hàng để gửi tiền, chỉ tiêu này càng
lớn càng thu hút khách hàng gửi tiền.
- Đối với hoạt động cho vay và đầu tư: Quy mô vốn
cho vay và đầu tư bị giới hạn bởi các tỷ lệ về giới hạn tín dụng trong mối
tương quan với vốn tự có, do đó vốn tự có càng lớn, càng tăng khả năng cho vay
của ngân hàng đối với nhiều đối tượng khách hàng và nhiều khách hàng lớn, đồng
thời nó là cơ sở để khách hàng tin tưởng vào năng lực cho vay và giải ngân của
ngân hàng. Ngân hàng còn có thể đạt mức lãi suất cho vay hợp lý, cạnh tranh nhờ
vào lợi thế quy mô.
- Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thanh toán và
các dịch vụ ngân hàng khác: vốn chủ sở hữu là nguồn đầu tư công nghệ, trang
thiết bị máy móc để phát triển dịch vụ mới và tăng năng suất, tính nhanh chóng,
hiệu quả, an toàn tiện cho các dịch vụ ngân hang hiện tại tăng cường tính cạnh
tranh của ngân hàng.
Theo qui định của Ủy ban Bassel, vốn tự có của
NHTM phải đạt tối thiểu 8% trên tổng tài sản có rủi ro chuyển đổi của ngân hàng
đó. Đó là điều kiện đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Mặt khác, vốn chủ sở hữu quyết định việc mở rộng
quy mô, phạm vi hoạt động của ngân hàng. Vốn tự có còn được dùng xác định quy
mô huy động vốn, các tỷ lệ giới hạn tín dụng đối với khách hàng, các tỷ lệ về
an toàn hoạt động để làm căn cứ quản lý và kiểm soát hoạt động của các NHTM. Ở
Việt Nam, các tỷ lệ này được quy định trong luật ngân hàng sẽ được đề cập trong
những phần sau. Trong xu thế hội nhập, nâng cao tính cạnh tranh của vốn tự có
là yêu cầu khách quan đối với mỗi NHTM để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong
hoạt động ngân hàng và mở rộng hoạt động ra thị trường tài chính quốc tế.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ. Do đặc thù đó nên phần lớn tài sản của ngân hàng là các tài
sản tài chính gồm:
- Ngân quỹ:
+ Tiền mặt trong két: Gồm nội tệ,
ngoại tệ, vàng và đá quý khác...
+ Tiền gửi tại các ngân hàng khác
gồm: tiền gửi tại ngân hàng nhà nước, tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín
dụng khác.
- Chứng khoán:
+ Chứng khoán của chính phủ (trung
ương hoặc địa phương) do Kho bạc Nhà nước phát hành.
+ Chứng khoán của các ngân hàng
khác, các công ty tài chính: Các cổ phiếu, các giấy nợ khác do các ngân hàng,
các công ty tài chính phát hành.
+ Chứng khoán của các công ty khác.
- Tín dụng: Là loại tài sản chiếm tỷ
trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng
của ngân hàng: Tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn; Bảo lãnh, cho thuê; ...
- Các tài sản khác: Tài sản ủy thác,
phần hùn vốn...
- Các tài sản ngoại bảng: Hợp đồng
bảo lãnh, hợp đồng tài chính...
Tổng tài sản thể hiện quy mô hoạt
động của các NHTM.
Phát triển mạng lưới được đánh giá
trên số chi nhánh, phòng giao dịch tăng lên hàng năm đồng thời tăng cường bổ
sung nhân lực, khả năng tài chính tương ứng với tốc độ phát triển của mạng
lưới...
Mở rộng chi nhánh, phòng giao dịch
hoặc chia tách dựa trên cơ sở:
- Nhu cầu về hoạt dộng ngân hàng
trên địa bàn;
- Tình hình thị trường trên địa bàn
dự kiến mở;
- Nội dung và phạm vi hoạt động;
- Dự kiến cán bộ lãnh đạo, biên chế;
- Dự kiến kế hoạch hoạt động trong
03 năm đầu;
- Văn bản chấp thuận dự định đặt trụ
sở của UBND có thẩm quyền nơi Ngân hàng đặt trụ sở.
Mở rộng và phát triển sản phẩm dịch vụ là việc
tăng cường số lượng và chất lượng, khả năng tiếp cận cho các sản phẩm dịch vụ
của ngân hàng, phản ánh qua các mặt:
- Số lượng dịch vụ cung cấp: Kinh tế càng phát
triển tính đa dạng của nhu cầu về loại hình dịch vụ ngân hàng càng cao, việc
tạo được nhiều sản phẩm dịch vụ đáp ứng mức độ phát triển của nhu cầu sẽ tạo ra
khả năng thu hút khách hàng và tăng thu nhập cho ngân hàng. Do đó bên cạnh các
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống, các NHTM cần tập trung nghiên cứu và
đưa ra các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới đáp ứng nhu cầu khách hàng, và phù
hợp với năng lực của ngân hàng.
- Chất lượng sản phẩm, thể hiện ở tính tiện ích,
tính chính xác, tính nhanh chóng và an toàn của sản phẩm dịch vụ. Chất lượng
sản phẩm dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ thu hút được khách hàng
đến giao dịch với ngân hàng.
- Giá cả dịch vụ: Giá cả cạnh tranh giúp đẩy mạnh
việc thu hút và sử dụng sản phẩm dịch vụ, mở rộng quy mô hoạt động dịch vụ của
ngân hàng.
- Khả năng tiếp cận và thu hút khách hàng, thể
hiện ở số lượng sở giao dịch, chi nhánh, đại lý trong và ngoài nước; số lượng
và hiệu quả các hoạt động marketing; thông tin cung cấp cho khách hàng...Các
yếu tố này hỗ trợ tích cực việc đưa dịch vụ của NHTM đến với khách hàng. Mặt
khác giúp nắm bắt nhu cầu, tiếp nhận chính xác, nhanh chóng thông tin phản hồi
của khách hàng để phát triển sản phẩm dịch vụ.
Hoạt động dịch vụ mang lại thu nhập lớn, đồng thời
có độ rủi ro và chi phí thấp do đó phạm vi và mức độ cạnh tranh ngày càng lớn,
việc mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngày càng được các NHTM quan
tâm.
Chỉ tiêu đánh
giá gồm nguồn lực quản lý, cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực :
* Chỉ tiêu đánh giá nguồn lực quản
lý thể hiện ở năng lực của bộ máy lãnh đạo. Bộ máy lãnh đạo là nhân tố kết nối
các nguồn lực của ngân hàng, năng lực của họ thể hiện ở các yếu tố: trình độ
đào tạo, số năm kinh nghiệm, khả năng tự học tập, mức thành thạo nghiệp vụ,
động cơ phấn đấu, mức độ cam kết, tác phong làm việc...
Bộ máy lãnh đạo đề ra phương hướng hoạt động, quản
trị, kiểm soát và điều hành toàn bộ hoạt động của ngân hàng do đó hiệu quả hoạt
động kinh doanh và triển vọng phát triển của NHTM phụ thuộc chủ yếu vào năng
lực của bộ máy lãnh đạo. Trong điều kiện cạnh tranh, năng lực của bộ máy lãnh
đạo càng được coi trọng hơn do cơ hội của các NHTM là như nhau, sự phát triển
của ngân hàng sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào tầm nhìn và khả năng nắm bắt cơ hội,
đề ra chiến lược phù hợp của ban lãnh đạo. Ngoài chỉ tiêu về trình độ, năng lực
của bộ máy lãnh đạo còn thể hiện qua các yếu tố: mức độ chi phối và khả năng
giám sát của hội đồng quản trị; chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến
lược kinh doanh; khả năng ứng phó với những thay đổi của thị trường; sự tăng
trưởng trong kết quả hoạt động kinh doanh...
* Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu tổ chức không nằm trong
số lượng đội ngũ quản lý, số lượng các phòng, ban chuyên môn mà được đánh giá
thông qua hiệu quả hoạt động của đội ngũ này. Thông qua chức năng hoạt động của
từng phòng ban, đánh giá trên cơ sở các văn bản điều hành có được sát với tình
hình thực tế, linh hoạt trong kinh doanh để tiến tới kinh doanh có hiệu
quả ?
Mức độ hỗ trợ của cơ cấu tổ chức đối
với mục tiêu chiến lược của ngân hàng. Mức độ tạo ra giá trị của chức năng và
những chức năng nào cần thiết để hỗ trợ tố hơn cho mục tiêu của ngân hàng. Mức
độ hỗ trợ cho việc đạt được các mục tiêu của các vị trí, vai trò nhất định. Các
vị trí công việc có đủ quyền hạn thực thi nhiệm vụ một cách có hiệu quả hay
không ? Mối quan hệ giữa người có nghĩa vụ báo cáo và người được báo cáo
có được xác lập rõ ràng ? Mức độ của việc kiểm soát và số cấp độ cần có
trong ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được các mục tiêu một
cách có hiệu quả. Các thành viên trong ban lãnh đạo và tổ kỹ thuật cũng như các
nhân viên có đủ năng lực và kỹ năng để hoàn thành vai trò được giao ? Mức
độ phối hợp hoạt động giữa các phòng ban và các bộ phận chức năng. Các hệ thống
hỗ trợ cần có để tổ chức thực hiện chức năng đạt hiệu quả cao.
* Chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực của các NHTM
phải được xem xét trên cả hai khía cạnh số lượng và chất lượng lao động.
- Về số lượng
lao động:
Để có thể mở rộng mạng lưới nhằm tăng thị phần và
phục vụ tốt khách hàng, các NHTM nhất định phải có lực lượng lao động đủ về số
lượng. Tuy nhiên cũng cần so sánh chỉ tiêu này trong mối tương quan với hệ
thống mạng lưới và hiệu quả kinh doanh để nhìn nhận năng suất lao động của
người lao động trong ngân hàng.
- Về chất lượng
lao động:
Chất lượng nguồn nhân lực trong ngân hàng thể hiện
qua các tiêu chí:
- Trình độ văn hóa của đội ngũ lao động: bao gồm
trình độ học vấn và các kỹ năng hỗ trợ như ngoại ngữ, tin học, khả năng giao
tiếp, thuyết trình, ra quyết định, giải quyết vấn đề, ... Tiêu chí này khá quan
trọng vì nó là nền tảng thể hiện khả năng của người lao động trong ngân hàng có
thể học hỏi, nắm bắt công việc để thực
hiện tốt kỹ năng nghiệp vụ.
- Kỹ năng quản trị đối với nhà điều hành; trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ đối với nhân viên: đây là
tiêu chí quan trọng quyết định đến chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho
khách hàng. NHTM cần một đội ngũ những nhà điều hành giỏi để giúp bộ máy vận
hành hiệu quả và một đội ngũ nhân viên với kỹ năng nghiệp vụ cao, có khả năng
tư vấn cho khách hàng để tạo được lòng tin với khách hàng và ấn tượng tốt về
ngân hàng. Đây là những yếu tố then chốt giúp ngân hàng cạnh tranh giành khách
hàng.
Ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân
hàng được xem là « chìa khóa » để các ngân hàng phát triển nhanh hơn,
bền vững hơn. Công nghệ ngân hàng bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp
như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự
động và các hệ thống trong nội bộ ngân hàng: hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ
thống báo cáo các rủi ro... Các hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng như khả năng quản lý, quản trị hoạt
động của nhà quản lý ngân hàng. Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng
nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân
hàng. Do đó công nghệ là nhân tố quan trọng phản ánh năng lực cạnh tranh của
NHTM, thể hiện qua các mặt sau:
* Khả năng trang bị công nghệ mới: Với tốc độ phát
triển nhanh của công nghệ ngân hàng, sự bùng nổ thông tin, và mức độ thay đổi
thường xuyên nhu cầu dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế, công nghệ hiện tại
không đủ khả năng cung cấp thông tin, công cụ phục vụ công tác quản lý, điều
hành và phát triển dịch vụ sẽ làm mất đi cơ hội kinh doanh của ngân hàng. Vì
thế, năng lực công nghệ phải bao gồm khả năng đổi mới các công nghệ hiện tại về
mặt kỹ thuật, kinh tế và trang bị công nghệ mới, hiện đại, thể hiện ở mức đầu
tư về vốn, nhân lực cho phát triển công nghệ, các kế hoạch chiến lược trong
việc tập trung nguồn lực phát triển công nghệ mới.
* Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với
nhu cầu của khách hàng và nhu cầu quản lý của ngân hàng: Thể hiện ở số và chất
lượng các công cụ, các báo cáo, các thông tin mà công nghệ thực hiện phục vụ
cho công tác quản trị, quản lý cho ngân hàng. Và số, chất lượng các dịch vụ
được tạo ra từ hệ thống công nghệ hiện tại của ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu
về dịch vụ ngân hàng của khách hàng. Ngân hàng sở hữu một cơ sở công nghệ tốt
và biết phát huy tối đa chức năng của công nghệ đó khả năng cạnh tranh sẽ được
tăng cường mạnh mẽ.
* Tính liên kết và độc đáo của công nghệ: Do đặc
tính phải đổi mới, chi phí đổi mới rất cao và ảnh hưởng của công nghệ rất lớn
đến hoạt động kinh doanh nên không NHTM nào có thể ngay lập tức thay thế toàn
bộ công nghệ cũ bằng công nghệ mới. Điều này đòi hỏi công nghệ cũ và mới phải
có tính liên kết cao để giảm thiểu chi phí và rủi ro trong quá trình cải tiến,
đổi mới mà vẫn phát huy được tính năng của công nghệ mới. Ngoài ra các ngân
hàng cần đầu tư phát triển, trang bị những công nghệ độc đáo nhằm tạo sự khác
biệt cho sản phẩm dịch vụ để thu hút khách hàng.
Như vậy, tiêu chí để đánh giá sự phát triển công
nghệ trong ngân hàng là việc ứng dụng công nghệ mới, hiện đại, đủ sức cạnh
tranh trong môi trường mới. Cụ thể :
- Đánh giá thông qua việc phát triển các dịch vụ
thanh toán hiện đại để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt ; mở rộng các dịch vụ ngân hàng điện tử theo hướng tiện ích, tối ưu và
an toàn nhất cho khách hàng.
- Đánh giá thông qua khả năng bảo đảm an ninh, bảo
mật, an toàn cơ sở dữ liệu trong ngân hàng.
- Đánh giá thông qua việc cung cấp thông tin tức
thì, nhanh nhạy, kịp thời từ đó những chính sách về kinh doanh được điều chỉnh
phù hợp và đạt hiệu quả hơn.
Khi đã có một hệ thống ứng dụng công nghệ tiên
tiến và ổn định phục vụ hoạt động kinh doanh thì các NHTM bước sang sự cạnh
tranh mới, đó là có được những dịch vụ và hỗ trợ tốt nhất trong suốt quá trình
hoạt động của mình.
Marketing đã trở thành hoạt động
không thể thiếu trong các doanh nghiệp nói chung và trong các NHTM nói riêng.
Marketing ngân hàng thuộc nhóm Marketing kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của
ngành dịch vụ. Có thể đánh giá về hoạt động marketing ngân hàng qua các tiêu chí
sau:
- Tăng cường các chương trình khuyến
mãi, quảng cáo thương hiệu... dưới các hình thức như: báo, tạp chí, truyền
hình, truyền thanh, băng rôn, áp phích, gửi thư trực tiếp, internet...
- Đánh giá sự trưởng thành của
thương hiệu gắn liền với sự lớn mạnh của ngân hàng.
- Khả năng nghiên cứu thị trường:
nghiên cứu môi trường kinh doanh; nghiên cứu nhu cầu và mong đợi của thị
trường; nghiên cứu khả năng cung ứng của các ngân hàng và sự cạnh tranh giữa
các ngân hàng.
- Khả năng xây dựng chiến lược Marketing,
tập trung vào 4 công cụ: chính sách về giá; chính sách về sản phẩm; chính sách
về phân phối; chính sách về giao tiếp khuyếch trương.
Lợi nhuận ngân hàng là một trong
những chỉ tiêu quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng; chỉ tiêu này được xác
định thông qua thu nhập – chi phí.
Thu nhập bao gồm: thu nhập thuần từ
chi phí - dịch vụ, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và chứng khoán, thu từ
các khoản đầu tư góp vốn, dự phòng rủi ro tín dụng...
Chi phí gồm: chi phí lãi và các
khoản chi phí tương tự, chi phí khấu hao, chi phí thuế, chi phí khác...
Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản thể
hiện một đồng tài sản của ngân hàng sẽ mang về bao nhiêu đồng lợi nhuận trong
một thời gian nhất định (thường là 01 năm).
Trong đó:
ROA (Return on assets) là tỷ lệ sinh lời trên tài
sản
NI là lợi nhuận sau thuế
TA là tổng tài sản
Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản
càng cao thể hiện khả năng quản lý, khai thác, sử dụng các tài sản của ngân
hàng càng có hiệu quả để tăng thu nhập cho ngân hàng.
Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu
thể hiện một đồng vốn chủ sở hữu ngân hàng tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong một thời gian nhất định (thường là 01 năm).
Trong đó:
ROE (Return on Equity) là tỷ lệ sinh lời trên vốn
chủ sở hữu
NI là lợi nhuận sau thuế
TE là
vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ
sinh lời trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng cao thể hiện việc sử dụng vốn
của ngân hàng càng hiệu quả.
Đây cũng
là chỉ tiêu mang tính định lượng thường được các nhà đầu tư quan tâm, sử dụng
khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đồng thời nó cũng thể
hiện khả năng, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn
và tài sản của ngân hàng càng cao là cơ sở ngân hàng tăng quy mô cũng như năng
lực cạnh tranh của ngân hàng.
Trong
đó:
là lợi nhuận tăng thêm tính trên vốn
đầu tư
W là lợi
nhuận tăng thêm bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
Iv
là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
Trong đó:
là mức đóng góp vào ngân sách nhà
nước tính trên một đồng vốn đầu tư
Hbq
là mức đóng góp tăng thêm bình quân vào NSNN trong kỳ (thường là 01 năm)
Iv
là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
Chỉ tiêu
này cho biết một đơn vị vốn đầu tư cho ngân hàng đóng góp vào việc tạo ra bao
nhiêu đồng ngân sách. càng cao chứng tỏ mức đóng góp của ngân hàng vào ngân sách
Nhà nước càng lớn.
Trong đó:
là số chỗ việc làm tăng thêm tính trên một đồng vốn đầu
tư
VLbq
là số chỗ việc làm tăng thêm bình quân của ngân hàng
Iv
là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
Trong đó:
là mức thu nhập thuần tăng thêm tính
trên một đồng vốn đầu tư
TNbq
là mức thu nhập thuần tăng thêm bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
Iv
là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
Thị phần
phản ánh quy mô hoạt động của NHTM trên thị trường và cũng là yếu tố thể hiện
năng lực cạnh tranh của một NHTM. Thị phần được thể hiện thông qua thị phần
tương đối, được xác định như sau:
- Doanh
thu của NHTM/Doanh thu của đối thủ cạnh tranh
- Nguồn
vốn CSH của NHTM/Nguồn vốn CSH của đối thủ cạnh tranh
- Tổng
tài sản NHTM/Tổng tài sản của đối thủ cạnh tranh
- Mạng
lưới của NHTM/Mạng lưới của đối thủ cạnh tranh
Nếu thị
phần tương đối lớn hơn 1, thì lợi thế cạnh tranh thuộc về Ngân hàng.
Nếu thị
phần tương đối nhỏ hơn 1, thì lợi thế cạnh tranh thuộc về đối thủ.
Nếu thị
phần tương đối bằng 1, thì lợi thế cạnh tranh của Ngân hàng và của đối thủ bằng
nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét