Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Lý luận về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại



LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh với nhau nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp cạn tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá...) hoặc phi giá cả (quảng cáo...).
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh là môi trường tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh (KD) phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các tổ chức, là nhân tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi tổ chức. Vì vậy, các tổ chức đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh tranh.
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế. Cụ thể:
+ Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
+ Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng.
+ Cạnh tranh là tiền đề của hệ thống free-enterprise vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá trị tối ưu nhất đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội. Cụ thể:
+ Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
+ Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại,...) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
            Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là một bộ phận cơ bản của đầu tư phát triển, đó là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với các đối thủ, làm duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm NHTM
Trong nghiên cứu có những cách tiếp cận khác nhau dẫn đến những khái niệm khác nhau về ngân hàng:
- Theo Peter Rose trong cuốn “ Quản trị ngân hàng thương mại” thì: “Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ than toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”
- Theo từ điển tài chính ngân hàng thì: “NHTM là tổ chức chịu sự điều tiết về luật lệ của một nước hoặc pháp luật của một nước và thuộc sở hữu của các cổ đông. Ngân hàng có nhiệm vụ thu nhận tiền gửi, cấp tín dụng và một số loại dịch vụ tài chính khác”
- Theo từ văn bản pháp luật gần đây nhất của Chính phủ Việt Nam: Điều 20 Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa: “NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Như vậy có thể hiểu NHTM là tổ chức tài chính trung gian chuyên hoạt động kinh doanh tiền tệ với hoạt động chính là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác như: bảo lãnh, bảo hiểm, mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, môi giới chứng khoán, uỷ thác và tư vấn đầu tư, quản lý ngân quỹ… Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, các hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú, NHTM trở thành một định chế tài chính trung gian đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các NHTM trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các NHTM khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng (KH), tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Đối với các NHTM, cạnh tranh là sự tranh đua giữa các ngân hàng thông qua rất nhiều phương thức, yếu tố, hành động để giành phần thắng trên thị trường trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị phần, xây dựng uy tín, thương hiệu…nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. 
Các NHTM cạnh tranh với nhau trong tất cả các hoạt động: huy động vốn, cho vay, cung cấp dịch vụ ngân hàng. Và đối thủ cạnh tranh của một NHTM là tất cả các tổ chức kinh tế cung cấp sản phẩm dịch vụ giống với ngân hàng, chủ yếu là các NHTM, tổ chức tín dụng khác và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
- Đặc thù của môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là các đối thủ cạnh tranh có số lượng giới hạn và sự gia tăng hay giảm bớt số lượng này là rất khó khăn và hạn chế, do việc cho phép một tổ chức được tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải tuân thủ một quy trình kiểm soát chặt chẽ với những điều kiện ngặt nghèo từ phía nhà nước, nhằm tránh cho nền kinh tế và công chúng khỏi những tổn thất lớn do hoạt động yếu kém, không rõ ràng, minh bạch của các tổ chức này mang lại và làm cho thị trường trở nên an toàn, lành mạnh hơn.
-  Trong cạnh tranh các NHTM phải tuân theo các nguyên tắc, luật lệ thế giới: Quá trình hội nhập đưa các hoạt động kinh tế thế giới theo một quỹ đạo chung trên cơ sở các cam kết, hiệp định thương mại. Lĩnh vực ngân hàng rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của một quốc gia, phạm vi hoạt động và ảnh hưởng rộng trong khu vực và thế giới, nên các NHTM muốn hoạt động lành mạnh và phát triển bền vững phải ký kết và tuân thủ những nguyên tắc này.
- Công nghệ là nhân tố trung tâm của cuộc cạnh tranh giữa các NHTM: Sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một NHTM mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các NHTM khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động được. Như vậy, cạnh tranh giữa các NHTM đòi hỏi và chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Công nghệ đang làm thay đổi hàng ngày phương thức hoạt động, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các NHTM. Các NHTM phải thấy được hai khả năng công nghệ có thể là nhân tố giúp ngân hàng sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh riêng, mặt khác có thể giúp các đối thủ vuợt trước, dẫn đến nguy cơ tụt hậu cho ngân hàng mình, để có chiến lược phát triển cho mình. Rõ ràng là, sự cạnh tranh của các NHTM loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác.
- Các NHTM cạnh tranh nhau gay gắt nhưng có sự hợp tác với nhau: Sự dễ thay đổi của khách hàng trong quan hệ giao dịch và đặc điểm dịch vụ ngân hàng có tính tương đồng, tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao là nguyên nhân làm cho cạnh tranh giữa các NHTM trở lên quyết liệt. Mặt khác thị trường dịch vụ ngân hàng rất đặc biệt, không ngân hàng nào có thể hoạt động bình thường nếu không có sự liên kết bình đẳng và minh bạch với các đối thủ. Các điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ của các ngân hàng đều có hạn trong khi nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao đòi hỏi các NHTM phải liên kết với nhau trong quá trình tác nghiệp. Đây là sự liên kết tự nhiên, có tính quy luật và có thể dự báo trước. Trong điều kiện hội nhập sự hợp tác giữa các NHTM sẽ càng được mở rộng cả về quy mô và chất lượng.
- Cạnh tranh giữa các NHTM phải hướng tới thị trường lành mạnh, tránh rủi ro hệ thống: Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ (DV) tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Như vậy, hành vi cạnh tranh của các NHTM có tính nguy hiểm cao vì uy tín và lợi ích, hoạt động của mỗi ngân hàng có ảnh hưởng mang tính dây truyền đến hệ thống các quyền lợi khác nhau trong xã hội: người gửi tiền, người vay tiền, các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Chính vì vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các NHTM khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị “vạ lây”. Đây là mối lo thường trực của cơ quan công quyền có chức năng quản lí cạnh tranh ở mọi quốc gia và là điều mà các NHTM không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các NHTM trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh vì mục tiêu tạo an toàn hoạt động cho toàn hệ thống.
- Cạnh tranh giữa các NHTM phụ thuộc nhiều vào môi trường bên ngoài: Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng KH, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động dây chuyền.
- Các NHTM cạnh tranh trên cơ sở có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương: Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau như các loại hình KD khác trong nền kinh tế. Trong thị trường dịch vụ ngân hàng, mặc dù Nhà nước khuyến khích sự cạnh tranh nhưng vì mục tiêu giữ ổn định nền kinh tế và bảo vệ quyền lợi của công chúng, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình cạnh tranh bằng việc thực thi những chính sách đặc thù như chính sách tiền tệ hay chính sách kiểm soát đặc biệt. Sự can thiệp này có thể khiến cho giới hạn cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường dịch vụ ngân hàng có phần bị thu hẹp, ảnh hưởng đến sự vận hành bình thường của quy luật cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa các NHTM chịu sự tác động của thị trường tài chính quốc tế: Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của các nước... Như vậy, sự mở rộng quan hệ hợp tác và phạm vi hoạt động của các chủ thể kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng ra thị trường quốc tế làm cho hoạt động kinh doanh của các NHTM chịu sự ảnh hưởng từ phía đối tác, đồng thời gắn chặt với các diễn biến về tỷ giá, lãi suất...của thị trường tài chính quốc tế. Các NHTM phải có các chính kinh doanh và cạnh tranh thích ứng với những diễn biến của thị trường tài chính quốc tế.
* Cạnh tranh về chất lượng dịch vụ: Ngày nay, chất lượng hàng hoá là nhân tố quan trọng nhất trong quyết định tiêu dùng của khách hàng. Các doanh nghiệp muốn đạt mục tiêu kinh doanh phải nỗ lực nâng cao chất lượng hàng hoá. Hàng hoá mà NHTM cung cấp là các dịch vụ ngân hàng, nên nâng cao chất lượng dịch vụ là nội dung chính các ngân hàng sử dụng để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ. Công nghệ phát triển các ngân hàng đều có cơ hội để nâng cao chất lượng dịch vụ, và khách hàng có nhiều thông tin, hiểu biết về dịch vụ ngân hàng nên nâng cao chất lượng dịch vụ là nhân tố quyết định hướng khách hàng quan tâm, sử dụng dịch vụ của ngân hàng, tạo ưu thế cạnh tranh. Đây là phương thức cạnh tranh lành mạnh và an toàn nhất cho các NHTM.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng do khách hàng sử dụng đánh giá chủ yếu trên các mặt: sự đa dạng, các tiện ích đi kèm, tính nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi của dịch vụ, thái độ phục vụ…Có nghĩa là để nâng cao chất lượng dịch vụ, ngân hàng phải thực hiện những công việc để tạo ra những dịch vụ có các tính chất trên tốt hơn so với đối thủ, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần quan tâm tới tính độc đáo, riêng biệt của dịch vụ ngân hàng. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải tạo dựng được cơ sở công nghệ ngân hàng tốt, đội ngũ nhân lực ưu tú, kết hợp chiến lược thị trường và chiến lược kinh doanh phù hợp, đúng lúc.
* Cạnh tranh về giá cả: Giá cả dịch vụ ngân hàng chính là lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay, phí dịch vụ ngân hàng. Yếu tố giá cả, nhất là lãi suất tác động mạnh đến tâm lý tiêu dùng của khách hàng, hơn nữa đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, sự dịch chuyển nhỏ của giá cả có thể tác động lớn tới quyết định sử dụng dịch vụ của khách hàng. Do đó cạnh tranh về giá cả là nội dung cạnh tranh có thể tăng cường rất tốt khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.
Trong việc xác định mức lãi suất và phí các NHTM phải đối mặt với mâu thuẫn: nếu ngân hàng quan tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì các mức lãi suất và phí phải thấp so với mặt bằng trên thị trường, điều này có nghĩa là thu nhập của ngân hàng sẽ thấp, thậm chí thua lỗ. Ngược lại nếu ngân hàng chú trọng đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí cao đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập, điều này lại dẫn đến mức giá cả không cạnh tranh. Trong khi đó mục tiêu của mọi tổ chức kinh tế trong kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, để đạt được điều đó cần tối thiểu hoá chi phí và tối đa hóa thu nhập. Như vậy cạnh tranh về giá cả có nhiều hạn chế, vì nó làm giảm bớt thu nhập của các ngân hàng.
            * Cạnh tranh phát triển hệ thống phân phối: Nội dung cạnh tranh này là việc các ngân hàng đẩy mạnh phát triển hệ thống kênh phân phối và các cách để tiếp cận, thu hút khách hàng, bao gồm:
- Phát triển kênh phân phối truyền thống: mở rộng hệ thống các chi nhánh, đại lý, tăng cường hợp tác với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. 
- Phát triển kênh phân phối hiện đại: ATM, Home banking, Internet banking, E Banking…các kênh phân phối hiện đại với ưu thế chi phí giao dịch thấp, tốc độ thực hiện nhanh, đang dần trở thành xu hướng chung trong kinh doanh ngân hàng.
- Đẩy mạnh các hoạt động quảng cáo, giới thiệu, cung cấp thông tin về sản phẩm ngân hàng đến với khách hàng. Thiết lập các kênh thông tin giúp khách hàng tiếp cận và tìm hiểu về sản phẩm dịch vụ tài chính dễ dàng hơn.
Dịch vụ ngân hàng có đặc tính nhanh bão hoà, không thể lưu trữ nên việc xây dựng các kênh phân phối rất quan trọng trong kinh doanh ở các NHTM, để nhanh chóng tiếp cận, đưa dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng, giúp nắm bắt kịp thời nhu cầu và phản ứng của khách hàng, nhằm chủ động hoàn thiện sản phẩm dịch vụ.
* Cạnh tranh về loại hình dịch vụ ngân hàng: Đa dạng hoá dịch vụ tạo ra nhiều lựa chọn, thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Qua đó tạo cho ngân hàng lợi thế cạnh tranh. Ngày nay kinh tế, xã hội phát triển nhu cầu dịch vụ ngân hàng gia tăng nhanh chóng và thường xuyên thay đổi, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng là nội dung cạnh tranh bắt buộc các ngân hàng phải quan tâm.
* Cạnh tranh về công nghệ ngân hàng: Đây là nội dung cạnh tranh vô cùng quan trọng, quyết định tính thành bại trong kinh doanh của một ngân hàng. Công nghệ làm tăng năng suất lao động, giảm thiểu chi phí hoạt động cho ngân hàng, mặt khác nâng cao chất lượng, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ đa năng cung cấp cho khách hàng. Vì thế các ngân hàng rất quan tâm đến vấn đề công nghệ của bản thân và đối thủ để có chiến lược đầu tư phát triển hợp lý.  
* Cạnh tranh về uy tín, thương hiệu: Các NHTM luôn cạnh tranh nhau về uy tín, thương hiệu vì giữ được chữ tín, tạo dựng được lòng tin, thương hiệu mạnh trong kinh doanh ngân hàng là những lợi thế rất lớn để giữ khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
1.2.4 Mô hình SWOT trong xác định chiến lược đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM
- Điểm mạnh: là các công việc ngân hàng làm tốt hơn so với các đối thủ. Đó có thể là những điểm mạnh dễ nhận biết như thị phần chi phối, vốn lớn, công nghệ hiện đại, nhân lực chất lượng cao…và những điểm mạnh chỉ có thể cảm nhận như khả năng thích ứng, thái độ phục vụ của đội ngũ nhân viên, uy tín thương hiệu...
- Điểm yếu: là những hạn chế của ngân hàng, những việc ngân hàng làm không tốt so với các đối thủ. Những điểm này có thể nhận biết hoặc không dễ nhận biết, ở dạng tiềm ẩn. Có thể nhận biết chính xác nguyên nhân và tác động của các điểm yếu đến hoạt động kinh doanh sẽ giúp NHTM khắc phục hiệu quả hơn.
- Cơ hội: Có những cơ hội có thể đến môi trường khách quan mang lại, hoặc do chính ngân hàng tạo ra nhờ vào các điểm mạnh. Các ngân hàng luôn luôn phải phân tích, tìm kiếm, tận dụng tốt các cơ hội cũng như tạo ra các cơ hội để thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngân hàng phát triển bền vững.
- Thách thức: là các yếu tố, các nguy cơ tiềm ẩn, những rủi ro mà các ngân hàng có thể gặp phải làm hoạt động của ngân hàng trở lên khó khăn. Những thách thức này có thể phát sinh từ bên trong, hoặc  bên ngoài ngân hàng.
Mô hình SWOT  thường đưa ra 4 chiến lược cơ bản: SO - các chiến lược dựa trên ưu thế của doanh nghiệp để tận dụng các cơ hội thị trường; WO - các chiến lược dựa trên khả năng vượt qua các yếu điểm để tận dụng cơ hội thị trường; ST- các chiến lược dựa trên ưu thế của của doanh nghiệp để tránh các nguy cơ của thị trường;  WT - các chiến lược dựa trên khả năng vượt qua hoặc hạn chế tối đa các yếu điểm của doanh nghiệp để tránh các nguy cơ của thị trường, mô tả trong bảng sau:

Các điểm mạnh
Các điểm yếu
Các
hội
Phân tích S-O
Phát huy các điểm mạnh như thế nào để tận dụng tối đa các cơ hội
Phân tích W- O
Khắc phục các điểm yếu như thế nào để tận dụng tốt các cơ hội
Các thách thức
Phân tích S-T
Sử dụng điểm mạnh như thế nào để chống lại các thách thức và thực hiện mục tiêu, nắm bắt các cơ hội
Phân tích W-T
Khắc phục điểm yếu như thế nào để chống lại các thách thức đối với việc thực hiện mục tiêu và theo đuổi cơ hội
Việc áp dụng phương pháp SWOT để trong xác định chiến lược đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng, cũng như giúp cho nhà quản lý ngân hàng xây dựng chiến lược cạnh tranh hiệu quả, đòi hỏi chất lượng hoạt động phân tích, đánh giá các năng lực hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính, công nghệ.. của ngân hàng và các đối thủ, cũng như các yếu tố môi trường phải tốt, chính xác.
            Môi trường kinh tế có ý nghĩa đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Nếu coi hệ thống ngân hàng như một hệ tuần hoàn trong một cơ thể sống là nền kinh tế thì hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay không lại phụ thuộc vào cơ thể sống đó. Cụ thể, bất kỳ một ngân hàng nào cũng thường quan tâm tới một số chỉ tiêu như: Tốc độ phát triển kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Một nền kinh tế có tốc độ phát triển cao sẽ tạo cơ hội cho đầu tư mở rộng hoạt động ngân hàng và ngược lại. Mức lãi suất sẽ quyết định cho mức cầu của doanh nghiệp. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, có thể đem lại cho ngân hàng một vận hội kinh doanh tốt hoặc cũng có thể là nguy cơ phá sản. Tỷ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thông qua việc ảnh hưởng tới sự nhiệt tình của các nhà đầu tư đối với các dự án. Nghiên cứu các chỉ tiêu môi trường kinh tế cũng như chiều hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế là cơ sở quan trọng để các nhà chiến lược ngân hàng hoạch định về chiến lược đầu tư, đổi mới của mình.
            Một số yếu tố về văn hóa – xã hội có thể ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, cụ thể nó ảnh hưởng thông qua việc tác động tới nhu cầu và nguồn nhân lực.
            Những đặc điểm xã hội ảnh hưởng tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng, đó là: lòng tin của nhân dân đối với các ngân hàng, thói quen tiêu tiền và tiết kiệm của người dân, trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về các dịch vụ của ngân hàng, mức thu nhập của người dân...
            Có thể nói ngân hàng là ngành kinh doanh “lòng tin”. Ngân hàng là người giữ tiền cho người dân cũng như các doanh nghiệp, ngân hàng chính là người giữ hầu bao của nền kinh tế. Nếu ngân hàng không tạo được niềm tin trong dân chúng thì chắc chắn hoạt động ngân hàng sẽ không thể tồn tại. Thói quen tiêu dùng của người dân ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là tập quán sử dụng tiền tệ. Nếu người dân có thói quen sử dụng tiền mặt nhiều thì rõ ràng ngân hàng sẽ bị hạn chế trong kinh doanh. Mức tiết kiệm của người dân càng cao càng ảnh hưởng đến nguồn cung ứng tín dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí càng cao thì khả năng phổ biến các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận lợi, dễ dàng và có cơ hooị để đổi mới của ngân hàng cũng sẽ cao hơn. Mức thu nhập của người dân là yếu tố quyết định tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng.
            Bên cạnh đó, một số đặc điểm văn hóa – xã hội ảnh hưởng tới nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng như: quan điểm về doanh nhân và kinh doanh, quan điểm về sự giàu có, quan điểm về đạo đức nghề nghiệp, quan điểm về rủi ro và thất bại...
            Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp. Một đất nước phải coi trọng doanh nghiệp, doanh nhân thì các doanh nghiệp nước đó mới có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng còn là một ngành dịch vụ đòi hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ nhất định, sự thành công của ngân hàng đòi hỏi phải có những cá nhân xuất sắc, có tham vọng kinh doanh, làm giàu và thăng tiến.
            Môi trường tự nhiên có thể nói ảnh hưởng tới mọi hoạt động của con người, cũng như vậy, ngân hàng là ngành chịu ảnh hưởng bởi yếu tố này. Môi trường tự nhiên bao gồm: môi trường khí hậu, sinh thái, dân số, vị trí địa lý – nơi mà ngân hàng có trụ sở.
            Môi trường khí hậu ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của cá nhân, tổ chức – khách hàng của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới chính hoạt động của ngân hànglkuh v jkf nm m.,.
            Dân số cũng là một yếu tố rất đáng quan tâm, các thông tin về tổng dân số tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc dân số... sẽ giúp ngân hang có thể dự đoán về thị trường hiện tại cũng như tương lai của ngân hàng. Căn cứ vào những thông tin trên, ngân hàng xác định được đoạn thị trường mục tiêu của mình để có những chiến lược, chính sách cụ thể cho phù hợp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng đó.
            Vị trí các ngân hàng cũng rất quan trọng, vì một trong những đặc tính của ngành dịch vụ là sản phẩm không nhìn thấy, chất lượng sản phẩm dịch vụ đó như thế nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố, cái mà khách hàng nhìn thấy đầu tiên đó là cơ sở hạ tầng của ngân hàng và vị trí địa lý của nó là một yếu tố rất đáng quan tâm. Một ngân hàng đóng tại vị trí trung tâm sẽ được nhiều khách hàng biết đến và chiếm được cảm tình ban đầu của họ.    
            Chính phủ có vai trò quan trọng  đối với bất kỳ một ngành nào, đặc biệt là ngành ngân hàng - người thủ quỹ của toàn bộ nền kinh tế.
            Chính phủ tác động đến sự phát triển của ngân hàng trước hết với vai trò của người quản lý, giám sát toàn bộ hệ thống thông qua vai trò của ngân hàng trung ương. Sự hoạt động an toàn và lành mạnh của các NHTM sẽ là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Do mối liên kết rất chặt chẽ của toàn bộ hệ thống NHTM, sự sụp vỡ của một ngân hàng thường gây ra những hậu quả to lớn và có khả năng gây ra hiệu ứng lan truyền trong toàn bộ hệ thống. Hơn nữa ngành ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, sự đổ vỡ ngành ngân hàng sẽ gây khó khăn cho tất cả các ngành đó, vì vậy hoạt động của các NHTM phải chịu sự quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước nói chung và của Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
            Ngoài chức năng của một người quản lý, giám sát các hoạt động của hệ thống ngân hàng, chính phủ còn là chủ sở hữu, là “con nợ” và “chủ nợ” lớn, thậm chí lớn nhất của các NHTM. Chính phủ cũng đồng thời là người hoạch định đường lối phát triển chung của toàn ngành và điều phối nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ có thể có những chính sách tác động đến cung - cầu, đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, đến các điều kiện nhân tố sản xuất, các ngành liên quan và phụ trợ của ngành ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cũng như có thể kìm hãm sự phát triển của ngành ngân hàng.
            Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành ngân hàng là tất cả các cá nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí là các ngân hàng khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, vừa là người bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những người bán sản phẩm thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có mong muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó những người mua sản phẩm (vay vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn thực tế. Như vậy, ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ chân được khách hàng cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể. Điều này đặt ra cho ngân hàng nhiều khó khăn trong định hướng cũng như phương thức hoạt động trong tương lai.
            Về đặc điểm của khách hàng: Khách hàng của NHTM không phải là khách hàng luôn “trung thành” mà rất dễ bị lôi kéo và thay đổi quan hệ giao dịch. Mức độ trung thành của khách hàng phụ thuộc vào sự đối xử của NHTM với họ, mà cao nhất là lợi ích trực tiếp thu được từ quan hệ giao dịch với ngân hàng. Khách hàng có thể ngay lập tức thay đổi quan hệ với ngân hàng để tìm mối lợi lớn hơn nếu họ biết rằng mức lãi mà họ nhận được cao (nếu là sản phẩm bán) và mức lãi suất thấp (nếu là sản phẩm mua) so với ngân hàng họ quan hệ. Như vậy, sự cạnh tranh của ngân hàng cũng được nhân lên do đặc điểm khách hàng rất dễ thay đổi quan hệ với ngân hàng.
Đây là những mối lo thường trực của các NHTM trong kinh doanh. Đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của NHTM trong tương lai. Ngoài ra, sự có của các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung ứng để chiến thắng trong cạnh tranh.
            Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại, trên thực tế, nhóm nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các NH này. Chúng bao gồm:
            - Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng: Nếu NHTM nào có ban lãnh đạo sáng suốt thì ngân hàng đó sẽ phát triển đạt được nhiều thành tựu.
            - Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM: Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới việc mở rộng quy mô của NHTM trong tương lai.
            - Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng: Công nghệ cho ngành ngân hàng ngày càng trở nên vô cùng quan trọng. Nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong việc xử lý các giao dịch.
            - Chất lượng nhân viên ngân hàng: Nguồn nhân lực của ngân hàng luôn là vấn đề đặt ra đối với bất kỳ NHTM nào. Để ngân hàng có thể phát triển tốt thì cần phải có một bộ máy nhân sự chất lượng.
            - Cấu trúc tổ chức: Tổ chức của bộ máy trong ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các ngân hàng. Một bộ máy tổ chức gọn nhẹ, linh động, có khoa học sẽ thúc đẩy được sự phát triển của ngân hàng trong hiện tại và tương lai.
            - Danh tiếng và uy tín của ngân hàng thương mại: Đây là vấn đề xây dựng thương hiệu mà tất cả các NHTM cần thực hiện. Để một ngân hàng có thể tồn tại và phát triển thì việc xây dựng thương hiệu, danh tiếng và uy tín là điều cấp bách ngay trong hiện tại và tương lai.
            Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung gian đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các dịch vụ tài chính mới cũng như các dịch vụ truyền thống vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các trung gian này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt và tạo cho người mua sản phẩm có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân hàng mở rộng hơn. Điều này tất yếu sẽ tác động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM, thị phần suy giảm. Ngày nay, người ta cho rằng, khi các NHTM mạnh lên nhờ sự rèn luyện trong cạnh tranh, thì hệ thống NHTM sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các cú sốc của nền kinh tế.
     Đặc điểm của sản phẩm: Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM bị chi phối bởi các đặc điểm hoạt động kinh doanh của nó. Sản phẩm chính sử dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM là tiền, đó là sản phẩm có tính xã hội và tính nhạy cảm cao, chỉ một biến động nhỏ (thay đổi lãi suất) cũng có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh của NHTM nói riêng và hoạt động của toàn xã hội nói chung. Từ đặc điểm này dẫn đến cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng trở nên quyết liệt. Cạnh tranh giữa các NHTM là nỗ lực hoạt động đồng bộ của NH trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy. Có nghĩa là, chính vì sản phẩm kinh doanh có tính nhạy cảm cao đã làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế VN từng bước mở cửa dịch vụ ngân hàng, nhằm hướng đến xây dựng hệ thống ngân hàng cạnh tranh bình đẳng trên bình diện quốc tế theo khuôn khổ pháp lý phù hợp và thống nhất. Hơn bao giờ hết sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, thách thức đối với các NHTMVN càng gia tăng khi Chính phủ VN tháo dỡ rào cản đối với các ngân hàng thương mại nước ngoài (NHTMNNg) và tiến đến xóa bỏ những bảo hộ của Nhà nước đối với ngân hàng trong nước. Vì vậy, việc đánh giá chính xác đồng thời có hướng đầu tư thích hợp nhằm nâng cao năng lực và vị thế cạnh tranh của NHTMVN trong điều kiện hiện nay là yêu cầu cần thiết. 
            Là một doanh nghiệp nên đầu tư trong các NHTM mang đặc điểm tương tự như đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp khác, điều này được thể hiện như sau:
            - Hoạt động đầu tư thường kéo dài trong nhiều năm, huy động nhiều nguồn lực kinh tế, xã hội nên nó thường mang tính rủi ro cao. Do đó, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị.
            - Hoạt động đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong NHTM đòi hỏi một số vốn lớn và vốn này nằm khe đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, vì thế nhà đầu tư phải nghiên cứu để quyết định xem sẽ bỏ đầu tư vào đâu, phương thức huy động vốn như thế nào, quản lý hoạt động đầu tư ra sao...
            - Trong quá trình thực hiện đầu tư phải chịu tác động của rất nhiều yếu tố: tự nhiên, pháp lý, kinh tế - xã hội... nên sẽ ảnh hưởng đến kết quả đầu ra, đầu vào của dự án. Do vậy, kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong các NHTM cũng theo đó mà chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố không ổn định theo thời gian.
            - Các thành quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong các NHTM có giá trị lâu dài, vì vậy để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao cần phải làm tốt giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
            Nguồn vốn đầu tư của ngân hàng được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu (vốn hình thành từ ban đầu) và nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động (lợi nhuận chưa phân phối, các quỹ...).
            * Nguồn vốn hình thành ban đầu (vốn chủ sở hữu)
            Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước, ngân sách nhà  nước cấp vốn. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông góp vốn thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Nếu là ngân hàng liên doanh do các bên góp, ngân hàng tư nhân là thuộc sở hữu tư nhân.
            * Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
            Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương cách khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể:
            - Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
            - Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định... Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
            * Các quỹ:
            Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng...
            Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, một số quỹ Ngân hàng không thể sử dụng lâu dài.
            * Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
            Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
            Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung, tùy thuộc theo cách tiếp cận. Căn cứ vào nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư những tài sản vật chất (Đầu tư phát triển mạng lưới, đầu tư phát triển các sản phẩm dịch vụ...) và đầu tư những tài sản vô hình (Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đầu tư phát triển thương hiệu...) thì đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong NHTM bao gồm những nội dung sau:
Đầu tư phát triển mạng lưới trong NHTM là việc mở rộng quy mô ngân hàng, mở rộng thêm các chi nhánh, các phòng giao dịch trên các thị trường đã được khảo sát.
Việc phát triển mạng lưới nhằm mục đích mở rộng thị trường thu hút thêm nhiều khách hàng mới, tạo điều kiện tốt nhất để khách hàng thuận tiện trong việc giao dịch với ngân hàng, từ đó làm tăng doanh tu, tăng lợi nhuận, nâng cao uy tín, thương hiệu và sức cạnh tranh trên thị trường.
Nội dung đầu tư này là việc các ngân hàng đẩy mạnh phát triển hệ thống kênh phân phối và các cách để tiếp cận, thu hút khách hàng, bao gồm:
- Phát triển kênh phân phối truyền thống: mở rộng hệ thống các chi nhánh, đại lý, tăng cường hợp tác với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.  Mạng lưới kênh phân phối rộng khắp đó là giải pháp tạo sự thuận tiện cho khách hàng mà bước đầu thành lập phần lớn các ngân hàng đều sử dụng. Đặc điểm của loại kênh phân phối này là hoạt động của nó dựa trên lao động trực tiếp của nhân viên ngân hàng. Cần lưu ý việc mở rộng mạng lưới theo địa lý cần phải được tính toán một cách kỹ lưỡng, cần phải phân tích, cân đối giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được bởi nó làm tăng chi phí của ngân hàng như chi phí thuê địa điểm, trả lương nhân viên....
- Phát triển kênh phân phối hiện đại: ATM, Home banking, Internet banking, E Banking…các kênh phân phối hiện đại với ưu thế chi phí giao dịch thấp, tốc độ thực hiện nhanh, đang dần trở thành xu hướng chung trong kinh doanh ngân hàng. Hiện tại, các ngân hàng cũng đã triển khai việc cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng ở một số kênh giao dịch hiện đại internet banking, mobile banking, ATM, POS…, song các kênh phân phối này còn khá mới mẻ với đại đa số người dân, mặt khác khả năng công nghệ, vận hành công nghệ và sự kết nối công nghệ phục vụ việc phân phối sản phẩm dịch vụ chưa thực sự tốt nên chưa phát huy được ưu điểm của các phân phối hiện đại. Do đó thời gian tới, các ngân hàng cần phát triển các kênh phân phối hiện đại theo hướng mở rộng ứng dụng và quy mô của các kênh phân phối này, nâng cao chất lượng và phát triển thêm các kênh phân phối, giao dịch hiện đại nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian, tạo an toàn cho khách hàng. Mặt khác phát triển rộng các kênh phân phối hiện đại giúp quảng bá rất tốt hình ảnh của ngân hàng, quan trọng nhất là tạo khả năng phục vụ được một số lượng lớn khách hàng ở mọi lúc, mọi nơi, vì các kênh phân phối hiện đại có ưu điểm là không cần có nhân viên thực hiện trực tiếp, hơn nữa tốc độ xử lý nhanh có thể thực hiện khối lượng lớn các giao dịch chỉ trong một thời gian ngắn.
Bất cứ NHTM nào cũng coi việc phát triển mạng lưới là một biện pháp quan trọng để giữ vững thị phần và nâng cao hiệu quả hoạt động và thực hiện định hướng NH bán lẻ. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của NHTM. Việc thành lập chi nhánh mới căn cứ theo quy định đối ứng vốn điều lệ; theo đó, tổng số chi nhánh ngân hàng thương mại đã mở và đề nghị mở phải đảm bảo vốn điều lệ của ngân hàng đáp ứng trên mức 100 tỷ đồng/chi nhánh nếu chi nhánh được mở tại TP. HCM và Hà Nội (trước đây là 20 tỷ đồng/chi nhánh); trên mức 50 tỷ đồng/chi nhánh nếu chi nhánh được mở tại các đơn vị hành chính khác (trước đây là 10 tỷ đồng/chi nhánh) (theo Quyết định số 13/2008/QĐ-NHNN ngày 29/04/2008 của Ngân hàng Nhà nước). Mục đích của việc quy định này là đưa ra những tiêu chí rõ ràng và chặt chẽ để “khuôn” ngân hàng hoạt động theo hướng an toàn hơn, lành mạnh hơn. “Mở rộng mạng lưới phải gắn với thực lực tài chính, phải đảm bảo các điều kiện về an toàn kho quỹ, hệ thống mạng... Cùng với việc mở thêm chi nhánh không để vượt quá năng lực vốn và khả năng điều hành.
Trong lĩnh vực ngân hàng thì việc áp dụng công nghệ là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh cạnh tranh của các NHTM. Để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng thì nhu cầu công nghệ là vô cùng quan trọng, quyết định tính thành bại trong kinh doanh của một ngân hàng. Công nghệ sẽ góp phần tạo nên những chuyển biến mang tính độc đáo và tiện ích hơn, nó giúp các NHTM tăng năng suất lao động, giảm thiểu chi phí hoạt động cho ngân hàng, mặt khác nâng cao chất lượng, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ đa năng cung cấp cho khách hàng. Vì thế các ngân hàng rất quan tâm đến vấn đề công nghệ của bản thân và đối thủ để có chiến lược đầu tư phát triển hợp lý. Ngày nay, các NHTM đang triển khai phát triển những sản phẩm ứng dụng công nghệ cao, và sử dụng các sản phẩm dịch mang tính chất công nghệ làm thước đo cho sự cạnh tranh, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán và các sản phẩm dịch vụ điện tử khác. 
Trong diễn đàn quốc tế “banking vietnam” khẳng định việc sử dụng công nghệ thông tin là công cụ chính để khẳng định năng lực cạnh tranh của các NHTM, sự phát triển các sản phẩm dịch vụ E-banking là xu hướng thời thượng, công nghệ là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các NHTM trong kinh doanh.
Thực tế đã cho thấy rằng, trong nền kinh tế ngày nay, lòng trung thành của khách hàng phụ thuộc vào thời gian đáp ứng, tính an toàn và chất lượng dịch vụ. Đối với các dịch vụ tài chính, các yêu cầu này đang ngày càng phụ thuộc vào hệ thống công nghệ thông tin (CNTT). Một trong những tiêu chuẩn là doanh nghiệp phải có một hệ thống hạ tầng CNTT được xây dựng thống nhất, đáp ứng được nhu cầu mở rộng và cấu trúc sao cho có thể triển khai các ứng dụng khác nhau một cách nhanh chóng, chính xác, khoa học và thuận tiện. Ngoài ra, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển, sẽ rất khó khăn cho NHTM nào không vận dụng công nghệ vào trong việc quản trị. Chính vì vậy, các NHTM không ngừng cải tiến, đầu tư cho phát triển các công nghệ hiện đại nhất vào quá trình quản trị: quản trị rủi ro, quản trị nhân lực, quản trị dịch vụ; nâng cấp công nghệ; bảo mật dữ liệu; Quản lý quy trình kinh doanh: gồm các phương pháp, kỹ thuật và công cụ để thiết kế, thực hiện, kiểm soát và phân tích các quy trình kinh doanh liên quan đến con người, các tổ chức, các ứng dụng và các nguồn thông tin khác. Đối với ngân hàng giảm thiểu được tối đa rủi ro, còn đối với khách hàng thì đáp ứng được nhu cầu tối đa của khách hàng.
Đóng góp vào những thành tựu của hệ thống ngân hàng trong 20 năm qua, không thể không kể đến vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng trong các lĩnh vực hoạt động của ngành Ngân hàng:
- Hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động của NHNN không ngừng được cải thiện, góp phần không nhỏ vào việc tăng cường hiệu quả trong thực hiện CSTT quốc gia, năng lực thanh tra giám sát, đảm nhận ngày càng tốt hơn vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Hệ thống dữ liệu của cả hệ thống ngân hàng đã được tin học hóa, kết nối với cả hệ thống, cung cấp thông tin hàng ngày cho NHNN, làm cơ sở hoạch định và thực thi các chính sách quản lý.
- Hệ thống corebanking (hệ thống quản trị ngân hàng tập trung) đã được ứng dụng phổ biến ở phần lớn các ngân hàng, giúp cải thiện đáng kể hiệu quả của hoạt động nội bộ ngân hàng như kế toán thanh toán, quản trị rủi ro, đánh giá xếp hạng tín dụng khách hàng...; các dữ liệu trong hoạt động được nối mạng trực tuyến giữa các Phòng, Ban tại trụ sở chính, Chi nhánh đảm bảo kiểm soát, phát hiện kịp thời các vấn đề phát sinh trong hoạt động. Ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời còn giúp các TCTD hiện đại hóa hệ thống thanh toán, đa dạng hóa hình thức huy động vốn, cho vay, với những sản phẩm tiện ích ngân hàng hiện đại, cung ứng cho doanh nghiệp và dân cư, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng.
Có thể nói, công nghệ thông tin được xem như một xu hướng chính trong hoạt động ngân hàng hiện đại thập niên vừa qua, các giải pháp kỹ thuật công nghệ được lựa chọn là phù hợp đã bảo đảm cho sự phát triển công nghệ tin học ngân hàng đúng hướng, là yếu tố giúp các ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, chiếm lĩnh thị phần bằng các thiết bị giao dịch tự động, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại; đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tăng vòng quay tiền tệ, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đồng vốn xã hội. Xu hướng mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển các giao dịch ngân hàng điện tử đã góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của NHNN.
Việc áp dụng công nghệ vào trong lĩnh vực tài chính ngân hàng góp phần quan trọng trong việc tồn tại và phát triển của các NHTM. Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước và sự phồn thịnh ngân hàng, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ ngày càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của ngân hàng.
Đầu tư phát triển các sản phẩm dịch vụ là sự nghiên cứu, tìm tòi phát triển thêm các sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng phù hợp với cơ chế thị trường.
            Đối với bất kỳ tổ chức nào việc đưa ra những sản phẩm mới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của tổ chức đó. Với những sản phẩm đáp ứng tốt nhất lợi ích của khách hàng sẽ làm tăng doanh thu, tăng thị phần, tăng lợi nhuận của tổ chức đó.
            Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng như hiện nay thì việc đầu tư phát triển các sản phẩm mới quan trọng hơn bao giờ hết. Ngân hàng sẽ thu hút  nhiều khách hàng với một sản phẩm, dịch vụ mới ra đời. Đồng thời  cũng có sự dịch chuyển khách hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác vì các sản phẩm, dịch vụ tốt hơn.
            NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với nhiều hoạt động, sản phẩm dịch vụ đa dạng, có thể tổng hợp những sản phẩm dịch vụ đó theo ba nhóm cơ bản, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính, vì vậy phát triển sản phẩm dịch vụ cần phải đồng bộ các sản phẩm:
             - Đầu tư phát triển các sản phẩm tiền gửi như: Tiền gửi không kỳ hạn (Tiền gửi thanh toán) - tiền gửi của dân cư và các tổ chức; Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức; Tiền gửi tiết kiệm của dân cư...
            - Đầu tư phát triển các hoạt động huy động vốn khác: Phát hành giấy tờ có giá (Trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi...); Nguồn vốn không phải trả lãi như: nguồn ủy thác, nguồn bảo lãnh thanh toán, mở thư tín dụng...
            - Đầu tư phát triển các sản phẩm tín dụng: Là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc và lãi. Cho vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng. Có rất nhiều loại hình cho vay khác nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư và các doanh nghiệp như cho vay dài hạn, trung hạn... NHTM cần đầu tư nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng với đa dạng các hình thức, đây là mục tiêu sống còn của các NHTM giai đoạn hiện nay.
            - Đầu tư vào các dịch vụ tài chính trung gian: Chuyển tiền “Ngân hàng thực hiện theo lệnh chuyển tiền của khách hàng tới đối tượng thụ hưởng”; Thanh toán không dùng tiền mặt “Các hình thức này ngày càng đa dạng như thanh toán bằng thẻ, séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi...”
            - Đầu tư phát triển các dịch vụ ủy thác và tư vấn: Các ngân hàng có nhiều chuyên gia về quản lý tài chính, vì vậy ngân hàng nhận tư vấn về quản lý tài sản và tài chính cho các cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu.
            - Đầu tư vào dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác, một số ngân hàng thành lập ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ này.
            - Đầu tư vào dịch vụ bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một số khách hàng là rất lớn đồng thời nắm giữ tiền gửi của khách hàng.
Ngoài ra, chất lượng dịch vụ cũng luôn là vấn đề quan tâm của mọi khách hàng và của mọi ngân hàng. Chất lượng dịch vụ ngày nay trở thành một lợi thế cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn đối với mọi NHTM.
Chất lượng dịch vụ luôn được đánh giá theo quan điểm của khách hàng. Nó thể hiện qua sự tin tưởng, cảm tình, ưa thích của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng. Như vậy, chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, đối tượng kinh doanh của các NHTM là tiền tệ, nên chất lượng dịch vụ không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng phục vụ của nhân viên ngân hàng mà còn được đánh giá thông qua độ an toàn chính xác trong xử lý nghiệp vụ, tính đơn giản, thuận tiện trong giao dịch và khoảng thời gian cần thiết để có thể hoàn tất một giao dịch.
Trong xu hướng hồi nhập kinh tế toàn cầu, các NHTM Việt Nam đang đứng trước nhiều vận hội lẫn thách thức. Làm thế nào để tạo ra ưu thế cạnh tranh để tồn tại và phát triển khi tất cả các đối thủ đều tận dụng triệt để công thức: Sản phẩm - Giá cả - Hệ thống phân phối - Quảng bá khuyến mại? Và câu trả lời là con người, nhất là con người có năng lực quản lý sẽ là nhân tố cạnh tranh vô cùng quan trọng. Có thể nói rằng: Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào là vai trò của những người lãnh đạo doanh nghiệp, những quyết định của họ có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của nhà lãnh đạo trong ngân hàng  có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để ngân hàng có một chiến lược kinh doanh đúng đắn trong dài hạn. Thông thường đánh giá năng lực quản trị, kiểm soát, điều hành của một ngân hàng người ta xem xét đánh giá các chuẩn mực và các chiến lược mà ngân hàng xây dựng cho hoạt động của mình. Hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo thời gian và khả năng vượt qua những bất trắc là bằng chứng cho năng lực quản trị cao của ngân hàng.
Năng lực quản trị phản ánh năng lực điều hành của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản trị thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc cũng như đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với Ban giám đốc; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán, kiểm soát nội bộ. Năng lực quản trị quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một Hội đồng quản trị hay một Ban giám đốc yếu kém, không có khả năng đưa ra một chính sách, chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của thị trường.. sẽ làm lãng phí các nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó.
Năng lực quản trị của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc bị chi phối bởi cơ cấu tổ chức của NHTM. Cơ cấu tổ chức là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng; phù hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Sự phù hợp thể hiện ở sự phân chia phù hợp nhiệm vụ và quyền hạn của các phòng ban chức năng, các bộ phận quản lý và tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc, vừa có tính liên kết, hỗ trợ và mức độ phối hợp giữa các bộ phận này trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày và khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động. Cơ cấu tổ chức có khả năng phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên cao sẽ giúp ngân hàng thực hiện hiệu quả các công việc và tiết kiệm chi phí hoạt động.
Cơ cấu tổ chức của ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng, ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc... Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng phòng ban sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp trong việc triển khai chiến lược kinh doanh các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi cơ cấu trước những biến động của ngành hay những biến động trong môi trường vĩ mô...
Trong một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như NHTM thì yếu tố con người có vai trò quan trọng trong việc thể hiện chất lượng của dịch vụ. Đội ngũ nhân viên của ngân hàng chính là người trực tiếp đem lại cho khách hàng những cảm nhận về ngân hàng và sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng thời tạo niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Đó chính là những đòi hỏi quan trọng đối với đội ngũ nhân viên ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng chiếm giữ thị phần cũng như tăng hiệu quả kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đối với năng lực cạnh tranh của một NHTM. Chất lượng nguồn nhân lực là kết quả của sự  cạnh tranh trong quá khứ đồng thời lại chính là năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong tương lai. Có một đội ngũ cán bộ thừa hành và nhân viên giỏi, có khả năng sáng tạo và thực thi chiến lược sẽ giúp ngân hàng hoạt động ổn định và bền vững. Có thể khẳng định nguồn nhân lực đủ về số lượng và đầy về chất lượng là  một biểu hiện năng lực cạnh tranh cao của NHTM. Các NHTM cần có phương pháp đầu tư cho công việc này một cách bài bản, hệ thống như một tầm nhìn dài hạn xuyên suốt các hoạt động khác nhau, hoạch định kế hoạch, gắn kết đồng bộ giữa các hoạt động khác nhau...
            Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là đầu tư nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và kỹ năng hành nghề, bồi dưỡng tinh thần chấp hành kỷ luật, giáo dục nâng cao nhận thức về văn hóa ứng xử trong công việc, xây dựng ác phong làm việc hiện đại và chuyên nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là cơ sở để cải thiện tất các các công cụ cạnh tranh sản phẩm, chất lượng sản phẩm và giá bán sản phẩm giúp việc tổ chức cung ứng dịch vụ tốt hơn, từ đó cải thiện công cụ cạnh tranh, tiêu thụ sản phẩm... Đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng là tiền đề quan trọng giúp các hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh khác của NHTM đạt hiệu quả cao hơn.
Chi phí đào tạo nguồn nhân lực trong ngân hàng được tính vào chi phí đầu tư cho  phát triển của ngân hàng. Hiệu quả đào tạo được coi là tiêu chí để đánh giá hiệu quả đầu tư. Thước đo hiệu quả của một chiến lược đào tạo nhân lực là chi phí về tài chính, thời gian thấp nhất và khả năng ứng dụng cao nhất. Vì vậy, mỗi quyết định đầu tư cho đào tạo nhân lực đều có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến năng lực cạnh tranh, lợi nhuận của mỗi ngân hàng.
            Ngày ngay, các định chế Ngân hàng hoạt động trong sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh và cuộc chiến giành giật thị trường diễn ra ngày càng khốc liệt cả ở trong và ngoài nước, điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải lựa  chọn lại cấu trúc và điều chỉnh cách thức hoạt động cho phù hợp với môi trường, nâng cao khả năng khám phá cơ hội kinh doanh và vị thế cạnh tranh. Điều này chỉ được thực hiện tốt một khi đầu tư đúng hướng vào marketing.
            Chiến lược Marketing là một chiến lược hành động toàn diện, được hình thành nhằm đáp ứng các đòi hỏi của một doanh nghiệp đang hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh và ở thị trường cụ thể xác định. Chiến lược Marketing bao gồm việc lựa chọn các mục tiêu thị trường và các phương pháp đạt được mục tiêu đó, đó chính là đầu tư cho Marketing để đạt được mục tiêu thị trường .
            Đầu tư vào hoạt động marketing của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường tập trung vào 02 nội dung cơ bản:
            - Tổ chức nghiên cứu môi trường kinh doanh ngân hàng: Nghiên cứu môi trường vĩ mô: môi trường địa lý, môi trường dân số, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa - xã hội, môi trường chính trị - pháp luật và môi trường kỹ thuật công nghệ; Nghiên cứu môi trường vi mô: các yếu tố nội lực ngân hàng như vốn tự có và khả năng phát triển của nó, hệ thống mạng lưới phân phối...; các đơn vị hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng, đó là các công ty tư vấn, quảng cáo, tin học...; Khách hàng của ngân hàng, đối thủ cạnh tranh...
            - Hệ thống thông tin nghiên cứu môi trường kinh doanh: Hệ thống thông tin nội bộ như báo cáo thống kê, kế toán tài chính, báo cáo của các nhà quản lý ngân hàng, báo cáo thanh tra, kiểm tra...; Hệ thống thông tin bên ngoài được hình thành từ các nguồn: các loại báo, tạp chí chuyên ngành, hệ thống thông tin truyền thanh, truyền hình; Các báo cáo thường niên của khách hàng và công ty...
Vốn chủ sở hữu của NHTM là toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, của các thành viên trong đối tác liên doanh hoặc các cổ đông trong ngân hàng, kinh phí quản lý do các đơn vị trực thuộc lập nên.
Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ bổ sung và các tài sản khác. Quy mô vốn chủ sở hữu có thể thay đổi trong quá trình hoạt động của NHTM.
Về mặt lý thuyết, vốn chủ sở hữu đang đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Hoạt động ngân hàng gặp rất nhiều rủi ro do chịu tác động lớn từ môi trường kinh tế và đối tượng khách hàng đa dạng, vốn chủ sở hữu là nguồn tài chính quan trọng hàng đầu để chống đỡ các rủi ro. Đây là nguồn vốn quan trọng dùng để đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng vì nó cung cấp tài chính cho các hoạt động kinh doanh của NHTM, quyết định sức mạnh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong tất cả các hoạt động. Vốn chủ sở hữu cao sẽ giúp ngân hàng tạo được uy tín trên thị trường và tạo lòng tin nơi công chúng. Vốn chủ sở hữu thấp đồng nghĩa với sức mạnh tài chính yếu và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng thấp. Cụ thể:
- Đối với hoạt động huy động vốn: vốn tự có lớn tạo niềm tin cho khách hàng do có chức năng bảo vệ người gửi tiền nên được khách hàng lấy làm căn cứ khi lựa chọn ngân hàng để gửi tiền, chỉ tiêu này càng lớn càng thu hút khách hàng gửi tiền.
- Đối với hoạt động cho vay và đầu tư: Quy mô vốn cho vay và đầu tư bị giới hạn bởi các tỷ lệ về giới hạn tín dụng trong mối tương quan với vốn tự có, do đó vốn tự có càng lớn, càng tăng khả năng cho vay của ngân hàng đối với nhiều đối tượng khách hàng và nhiều khách hàng lớn, đồng thời nó là cơ sở để khách hàng tin tưởng vào năng lực cho vay và giải ngân của ngân hàng. Ngân hàng còn có thể đạt mức lãi suất cho vay hợp lý, cạnh tranh nhờ vào lợi thế quy mô.
- Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác: vốn chủ sở hữu là nguồn đầu tư công nghệ, trang thiết bị máy móc để phát triển dịch vụ mới và tăng năng suất, tính nhanh chóng, hiệu quả, an toàn tiện cho các dịch vụ ngân hang hiện tại tăng cường tính cạnh tranh của ngân hàng.
Theo qui định của Ủy ban Bassel, vốn tự có của NHTM phải đạt tối thiểu 8% trên tổng tài sản có rủi ro chuyển đổi của ngân hàng đó. Đó là điều kiện đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Mặt khác, vốn chủ sở hữu quyết định việc mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động của ngân hàng. Vốn tự có còn được dùng xác định quy mô huy động vốn, các tỷ lệ giới hạn tín dụng đối với khách hàng, các tỷ lệ về an toàn hoạt động để làm căn cứ quản lý và kiểm soát hoạt động của các NHTM. Ở Việt Nam, các tỷ lệ này được quy định trong luật ngân hàng sẽ được đề cập trong những phần sau. Trong xu thế hội nhập, nâng cao tính cạnh tranh của vốn tự có là yêu cầu khách quan đối với mỗi NHTM để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng và mở rộng hoạt động ra thị trường tài chính quốc tế.
            Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Do đặc thù đó nên phần lớn tài sản của ngân hàng là các tài sản tài chính gồm:
            - Ngân quỹ:
            + Tiền mặt trong két: Gồm nội tệ, ngoại tệ, vàng và đá quý khác...
            + Tiền gửi tại các ngân hàng khác gồm: tiền gửi tại ngân hàng nhà nước, tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
            - Chứng khoán:
            + Chứng khoán của chính phủ (trung ương hoặc địa phương) do Kho bạc Nhà nước phát hành.
            + Chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính: Các cổ phiếu, các giấy nợ khác do các ngân hàng, các công ty tài chính phát hành.
            + Chứng khoán của các công ty khác.
            - Tín dụng: Là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng: Tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn; Bảo lãnh, cho thuê; ...
            - Các tài sản khác: Tài sản ủy thác, phần hùn vốn...
            - Các tài sản ngoại bảng: Hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng tài chính...
            Tổng tài sản thể hiện quy mô hoạt động của các NHTM.
            Phát triển mạng lưới được đánh giá trên số chi nhánh, phòng giao dịch tăng lên hàng năm đồng thời tăng cường bổ sung nhân lực, khả năng tài chính tương ứng với tốc độ phát triển của mạng lưới...
            Mở rộng chi nhánh, phòng giao dịch hoặc chia tách dựa trên cơ sở:
            - Nhu cầu về hoạt dộng ngân hàng trên địa bàn;
            - Tình hình thị trường trên địa bàn dự kiến mở;
            - Nội dung và phạm vi hoạt động;
            - Dự kiến cán bộ lãnh đạo, biên chế;
            - Dự kiến kế hoạch hoạt động trong 03 năm đầu;
            - Văn bản chấp thuận dự định đặt trụ sở của UBND có thẩm quyền nơi Ngân hàng đặt trụ sở.
Mở rộng và phát triển sản phẩm dịch vụ là việc tăng cường số lượng và chất lượng, khả năng tiếp cận cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, phản ánh qua các mặt:
- Số lượng dịch vụ cung cấp: Kinh tế càng phát triển tính đa dạng của nhu cầu về loại hình dịch vụ ngân hàng càng cao, việc tạo được nhiều sản phẩm dịch vụ đáp ứng mức độ phát triển của nhu cầu sẽ tạo ra khả năng thu hút khách hàng và tăng thu nhập cho ngân hàng. Do đó bên cạnh các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống, các NHTM cần tập trung nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới đáp ứng nhu cầu khách hàng, và phù hợp với năng lực của ngân hàng.
- Chất lượng sản phẩm, thể hiện ở tính tiện ích, tính chính xác, tính nhanh chóng và an toàn của sản phẩm dịch vụ. Chất lượng sản phẩm dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ thu hút được khách hàng đến giao dịch với ngân hàng.
- Giá cả dịch vụ: Giá cả cạnh tranh giúp đẩy mạnh việc thu hút và sử dụng sản phẩm dịch vụ, mở rộng quy mô hoạt động dịch vụ của ngân hàng.
- Khả năng tiếp cận và thu hút khách hàng, thể hiện ở số lượng sở giao dịch, chi nhánh, đại lý trong và ngoài nước; số lượng và hiệu quả các hoạt động marketing; thông tin cung cấp cho khách hàng...Các yếu tố này hỗ trợ tích cực việc đưa dịch vụ của NHTM đến với khách hàng. Mặt khác giúp nắm bắt nhu cầu, tiếp nhận chính xác, nhanh chóng thông tin phản hồi của khách hàng để phát triển sản phẩm dịch vụ.
Hoạt động dịch vụ mang lại thu nhập lớn, đồng thời có độ rủi ro và chi phí thấp do đó phạm vi và mức độ cạnh tranh ngày càng lớn, việc mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngày càng được các NHTM quan tâm.
            Chỉ tiêu đánh giá gồm nguồn lực quản lý, cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực :
            * Chỉ tiêu đánh giá nguồn lực quản lý thể hiện ở năng lực của bộ máy lãnh đạo. Bộ máy lãnh đạo là nhân tố kết nối các nguồn lực của ngân hàng, năng lực của họ thể hiện ở các yếu tố: trình độ đào tạo, số năm kinh nghiệm, khả năng tự học tập, mức thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ cam kết, tác phong làm việc... 
Bộ máy lãnh đạo đề ra phương hướng hoạt động, quản trị, kiểm soát và điều hành toàn bộ hoạt động của ngân hàng do đó hiệu quả hoạt động kinh doanh và triển vọng phát triển của NHTM phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của bộ máy lãnh đạo. Trong điều kiện cạnh tranh, năng lực của bộ máy lãnh đạo càng được coi trọng hơn do cơ hội của các NHTM là như nhau, sự phát triển của ngân hàng sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào tầm nhìn và khả năng nắm bắt cơ hội, đề ra chiến lược phù hợp của ban lãnh đạo. Ngoài chỉ tiêu về trình độ, năng lực của bộ máy lãnh đạo còn thể hiện qua các yếu tố: mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội đồng quản trị; chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược kinh doanh; khả năng ứng phó với những thay đổi của thị trường; sự tăng trưởng trong kết quả hoạt động kinh doanh...
* Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu tổ chức không nằm trong số lượng đội ngũ quản lý, số lượng các phòng, ban chuyên môn mà được đánh giá thông qua hiệu quả hoạt động của đội ngũ này. Thông qua chức năng hoạt động của từng phòng ban, đánh giá trên cơ sở các văn bản điều hành có được sát với tình hình thực tế, linh hoạt trong kinh doanh để tiến tới kinh doanh có hiệu quả ?
            Mức độ hỗ trợ của cơ cấu tổ chức đối với mục tiêu chiến lược của ngân hàng. Mức độ tạo ra giá trị của chức năng và những chức năng nào cần thiết để hỗ trợ tố hơn cho mục tiêu của ngân hàng. Mức độ hỗ trợ cho việc đạt được các mục tiêu của các vị trí, vai trò nhất định. Các vị trí công việc có đủ quyền hạn thực thi nhiệm vụ một cách có hiệu quả hay không ? Mối quan hệ giữa người có nghĩa vụ báo cáo và người được báo cáo có được xác lập rõ ràng ? Mức độ của việc kiểm soát và số cấp độ cần có trong ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được các mục tiêu một cách có hiệu quả. Các thành viên trong ban lãnh đạo và tổ kỹ thuật cũng như các nhân viên có đủ năng lực và kỹ năng để hoàn thành vai trò được giao ? Mức độ phối hợp hoạt động giữa các phòng ban và các bộ phận chức năng. Các hệ thống hỗ trợ cần có để tổ chức thực hiện chức năng đạt hiệu quả cao.
* Chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực của các NHTM phải được xem xét trên cả hai khía cạnh số lượng và chất lượng lao động.
- Về số lượng lao động:
Để có thể mở rộng mạng lưới nhằm tăng thị phần và phục vụ tốt khách hàng, các NHTM nhất định phải có lực lượng lao động đủ về số lượng. Tuy nhiên cũng cần so sánh chỉ tiêu này trong mối tương quan với hệ thống mạng lưới và hiệu quả kinh doanh để nhìn nhận năng suất lao động của người lao động trong ngân hàng.
- Về chất lượng lao động:
Chất lượng nguồn nhân lực trong ngân hàng thể hiện qua các tiêu chí: 
- Trình độ văn hóa của đội ngũ lao động: bao gồm trình độ học vấn và các kỹ năng hỗ trợ như ngoại ngữ, tin học, khả năng giao tiếp, thuyết trình, ra quyết định, giải quyết vấn đề, ... Tiêu chí này khá quan trọng vì nó là nền tảng thể hiện khả năng của người lao động trong ngân hàng có thể  học hỏi, nắm bắt công việc để thực hiện tốt kỹ năng nghiệp vụ.
- Kỹ năng quản trị đối với nhà điều hành; trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ đối với nhân viên: đây là tiêu chí quan trọng quyết định đến chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. NHTM cần một đội ngũ những nhà điều hành giỏi để giúp bộ máy vận hành hiệu quả và một đội ngũ nhân viên với kỹ năng nghiệp vụ cao, có khả năng tư vấn cho khách hàng để tạo được lòng tin với khách hàng và ấn tượng tốt về ngân hàng. Đây là những yếu tố then chốt giúp ngân hàng cạnh tranh giành khách hàng.
Ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng được xem là « chìa khóa » để các ngân hàng phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Công nghệ ngân hàng bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động và các hệ thống trong nội bộ ngân hàng: hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo các rủi ro... Các hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng như khả năng quản lý, quản trị hoạt động của nhà quản lý ngân hàng. Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Do đó công nghệ là nhân tố quan trọng phản ánh năng lực cạnh tranh của NHTM, thể hiện qua các mặt sau:
* Khả năng trang bị công nghệ mới: Với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ ngân hàng, sự bùng nổ thông tin, và mức độ thay đổi thường xuyên nhu cầu dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế, công nghệ hiện tại không đủ khả năng cung cấp thông tin, công cụ phục vụ công tác quản lý, điều hành và phát triển dịch vụ sẽ làm mất đi cơ hội kinh doanh của ngân hàng. Vì thế, năng lực công nghệ phải bao gồm khả năng đổi mới các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật, kinh tế và trang bị công nghệ mới, hiện đại, thể hiện ở mức đầu tư về vốn, nhân lực cho phát triển công nghệ, các kế hoạch chiến lược trong việc tập trung nguồn lực phát triển công nghệ mới.
* Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của khách hàng và nhu cầu quản lý của ngân hàng: Thể hiện ở số và chất lượng các công cụ, các báo cáo, các thông tin mà công nghệ thực hiện phục vụ cho công tác quản trị, quản lý cho ngân hàng. Và số, chất lượng các dịch vụ được tạo ra từ hệ thống công nghệ hiện tại của ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng của khách hàng. Ngân hàng sở hữu một cơ sở công nghệ tốt và biết phát huy tối đa chức năng của công nghệ đó khả năng cạnh tranh sẽ được tăng cường mạnh mẽ.
* Tính liên kết và độc đáo của công nghệ: Do đặc tính phải đổi mới, chi phí đổi mới rất cao và ảnh hưởng của công nghệ rất lớn đến hoạt động kinh doanh nên không NHTM nào có thể ngay lập tức thay thế toàn bộ công nghệ cũ bằng công nghệ mới. Điều này đòi hỏi công nghệ cũ và mới phải có tính liên kết cao để giảm thiểu chi phí và rủi ro trong quá trình cải tiến, đổi mới mà vẫn phát huy được tính năng của công nghệ mới. Ngoài ra các ngân hàng cần đầu tư phát triển, trang bị những công nghệ độc đáo nhằm tạo sự khác biệt cho sản phẩm dịch vụ để thu hút khách hàng.
Như vậy, tiêu chí để đánh giá sự phát triển công nghệ trong ngân hàng là việc ứng dụng công nghệ mới, hiện đại, đủ sức cạnh tranh trong môi trường mới. Cụ thể :
- Đánh giá thông qua việc phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ; mở rộng các dịch vụ ngân hàng điện tử theo hướng tiện ích, tối ưu và an toàn nhất cho khách hàng.
- Đánh giá thông qua khả năng bảo đảm an ninh, bảo mật, an toàn cơ sở dữ liệu trong ngân hàng.
- Đánh giá thông qua việc cung cấp thông tin tức thì, nhanh nhạy, kịp thời từ đó những chính sách về kinh doanh được điều chỉnh phù hợp và đạt hiệu quả hơn.
Khi đã có một hệ thống ứng dụng công nghệ tiên tiến và ổn định phục vụ hoạt động kinh doanh thì các NHTM bước sang sự cạnh tranh mới, đó là có được những dịch vụ và hỗ trợ tốt nhất trong suốt quá trình hoạt động của mình.
            Marketing đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong các doanh nghiệp nói chung và trong các NHTM nói riêng. Marketing ngân hàng thuộc nhóm Marketing kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của ngành dịch vụ. Có thể đánh giá về hoạt động marketing ngân hàng qua các tiêu chí sau:
            - Tăng cường các chương trình khuyến mãi, quảng cáo thương hiệu... dưới các hình thức như: báo, tạp chí, truyền hình, truyền thanh, băng rôn, áp phích, gửi thư trực tiếp, internet...
            - Đánh giá sự trưởng thành của thương hiệu gắn liền với sự lớn mạnh của ngân hàng.
            - Khả năng nghiên cứu thị trường: nghiên cứu môi trường kinh doanh; nghiên cứu nhu cầu và mong đợi của thị trường; nghiên cứu khả năng cung ứng của các ngân hàng và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.
            - Khả năng xây dựng chiến lược Marketing, tập trung vào 4 công cụ: chính sách về giá; chính sách về sản phẩm; chính sách về phân phối; chính sách về giao tiếp khuyếch trương.
            Lợi nhuận ngân hàng là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng; chỉ tiêu này được xác định thông qua thu nhập – chi phí.
            Thu nhập bao gồm: thu nhập thuần từ chi phí - dịch vụ, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và chứng khoán, thu từ các khoản đầu tư góp vốn, dự phòng rủi ro tín dụng...
            Chi phí gồm: chi phí lãi và các khoản chi phí tương tự, chi phí khấu hao, chi phí thuế, chi phí khác...
            Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản thể hiện một đồng tài sản của ngân hàng sẽ mang về bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời gian nhất định (thường là 01 năm).
            Trong đó:
ROA (Return on assets) là tỷ lệ sinh lời trên tài sản
            NI là lợi nhuận sau thuế
            TA là tổng tài sản
            Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản càng cao thể hiện khả năng quản lý, khai thác, sử dụng các tài sản của ngân hàng càng có hiệu quả để tăng thu nhập cho ngân hàng.      
            Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu thể hiện một đồng vốn chủ sở hữu ngân hàng tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời gian nhất định (thường là 01 năm).
            Trong đó:
ROE (Return on Equity) là tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu
            NI là lợi nhuận sau thuế
            TE là vốn chủ sở hữu
            Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng cao thể hiện việc sử dụng vốn của ngân hàng càng hiệu quả.
            Đây cũng là chỉ tiêu mang tính định lượng thường được các nhà đầu tư quan tâm, sử dụng khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đồng thời nó cũng thể hiện khả năng, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của ngân hàng càng cao là cơ sở ngân hàng tăng quy mô cũng như năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
            Trong đó:
 là lợi nhuận tăng thêm tính trên vốn đầu tư
            W là lợi nhuận tăng thêm bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
            Iv là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
           
Trong đó:
 là mức đóng góp vào ngân sách nhà nước tính trên một đồng vốn đầu tư
            Hbq là mức đóng góp tăng thêm bình quân vào NSNN trong kỳ (thường là 01 năm)
            Iv là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
            Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị vốn đầu tư cho ngân hàng đóng góp vào việc tạo ra bao nhiêu đồng ngân sách. càng cao chứng tỏ mức đóng góp của ngân hàng vào ngân sách Nhà nước càng lớn.
Trong đó:
 là số chỗ việc làm tăng thêm tính trên một đồng vốn đầu tư
            VLbq là số chỗ việc làm tăng thêm bình quân của ngân hàng
            Iv là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
Trong đó:
 là mức thu nhập thuần tăng thêm tính trên một đồng vốn đầu tư
            TNbq là mức thu nhập thuần tăng thêm bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
            Iv là vốn đầu tư phát triển bình quân trong kỳ (thường là 01 năm)
            Thị phần phản ánh quy mô hoạt động của NHTM trên thị trường và cũng là yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của một NHTM. Thị phần được thể hiện thông qua thị phần tương đối, được xác định như sau:
            - Doanh thu của NHTM/Doanh thu của đối thủ cạnh tranh
            - Nguồn vốn CSH của NHTM/Nguồn vốn CSH của đối thủ cạnh tranh
            - Tổng tài sản NHTM/Tổng tài sản của đối thủ cạnh tranh
            - Mạng lưới của NHTM/Mạng lưới của đối thủ cạnh tranh
            Nếu thị phần tương đối lớn hơn 1, thì lợi thế cạnh tranh thuộc về Ngân hàng.
            Nếu thị phần tương đối nhỏ hơn 1, thì lợi thế cạnh tranh thuộc về đối thủ.
            Nếu thị phần tương đối bằng 1, thì lợi thế cạnh tranh của Ngân hàng và của đối thủ bằng nhau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét