Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản



1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LĨNH VỰC NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm ngành thủy sản
            Ngành thủy sản là ngành kinh tế cấp I, bao gồm các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá, hiện được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta, với những đặc điểm sau :
            Một là, ngành thủy sản là một bộ phận hay còn gọi là một phân ngành nông nghiệp. Tư liệu sản xuất chủ yếu của ngành thủy sản là mặt nước, đối tượng lao động là cá, giáp xác, nhuyễn thể và động vật lưỡng cư. Kết quả sản xuất của ngành là sản lượng thủy sản nuôi trồng, đánh bắt, giá trị kim ngạch xuất khẩu, giá trị sản phẩm chế biến tiêu dùng nội địa...Phát triển thủy sản góp phần phát triển kinh tế xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo....Mặc dù có những đặc điểm tương tự của ngành nông nghiệp nhưng ngành Thủy sản vẫn có tính độc lập tương đối về mặt kinh tế, kỹ thuật và môi trường. Tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ người ta khó phân biệt rạch ròi được quyền sở hữu, quản lý và sử dụng nguồn lợi thủy sản, nhất là đối với các lưu vực sông, biển, hồ chứa, vịnh hay vùng biển. Do vậy các hình thức tổ chức sản xuất và hợp tác thường được coi trọng. Về mặt kỹ thuật, tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ, ngành Thủy sản đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật riêng phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và hoạt động dịch vụ hậu cần. Về mặt môi trường, hoạt động của ngành Thủy sản cũng có thể tự gây ô nhiễm cho môi trường nước, các thủy vực, và cũng có thể bị ảnh hưởng từ hoạt động của các ngành khác.Do vậy, sự phát triển hài hòa giữa thủy sản với các ngành kinh tế khác trên một vùng sinh thái là tiền đề phát triển kinh tế xã hội bền vững.
            Hai là, xuất phát điểm của ngành thủy sản bao gồm những hoạt động thuộc các lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và thương mại thủy sản.Tùy điều kiện cụ thể của mỗi vùng và mỗi địa phương mà coi trọng hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và thương mại thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá hoặc kết hợp hài hòa các hoạt động này.
            Ba là, ngành thủy sản là một ngành có tính chất liên ngành cao. Khi trình độ phát triển và nhu cầu xã hội còn thấp, sản xuất ngành thủy sản có quy mô nhỏ, sản phẩm ít nên chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp dưới dạng sản phẩm tươi. Khi quy mô sản xuất tăng lên, nhu cầu tiêu dùng của xã hội đa dạng và phức tạp thì việc chế biến sản phẩm đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ các ngành chuyên môn hóa hẹp như: Công nghiệp đánh bắt cá biển, cơ khí chế tạo và sửa chữa tàu thuyền, công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi thủy sản, công nghiệp chế biến sản phẩm thủy sản...
Ngành thuỷ sản (đặc biệt khai thác hải sản) là ngành nghề lao động rất nặng nhọc; nền tảng của ngành là tài nguyên sinh học nên rất nhạy cảm với thay đổi thời tiết, dịch bệnh và thường xuyên gặp rủi ro, do đó đòi hỏi những người làm công tác này phải có sức khoẻ, kiến thức và lòng dũng cảm.
Nuôi trồng thủy sản là một khái niệm dùng để chỉ tất cả các hình thức nuôi trồng động thực vật thủy sinh ở các môi trường nước ngọt lợ mặn (Pillay, 1990).
            Nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp trên mọi vùng miền từ miền núi tới miền biển với nhiều giống loài mang tính bản địa rõ rệt. Vì vậy công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của ngành cần chú ý tới các vấn đề như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, triển khai thực hiện các chính sách phải phù hợp với từng vùng lãnh thổ khác nhau.
             Số lượng và chất lượng thủy vực và nguồn lợi thủy sản rất khác nhau. Mỗi mặt nước nuôi trồng thủy sản có độ màu mỡ khác nhau phụ thuộc vào thổ nhưỡng và nguồn nước. Giống loài nuôi dưới nước khó quan sát trực tiếp nên rủi ro nhiều hơn và đòi hỏi người nuôi trồng thủy sản  phải có kinh nghiệm
            Hoạt động nuôi trồng thủy sản có tính mùa vụ rõ rệt vì có quy luật sinh trưởng, sinh sản riêng
Ø     Phương thức nuôi trồng thủy sản
            Nuôi trồng thủy sản có thể được tiến hành ở nhiều loại hình mặt nước với nhiều hình thức khác nhau. Theo từ điển Việt Nam, các phương thức Nuôi trồng thủy sản được khái quát như sau:
            - Nuôi quảng canh hay còn gọi là nuôi bằng nguồn thức ăn tự nhiên trong các ao, hồ, đầm ở nông thôn và các đầm nước lợ ven biển
            - Nuôi quảng canh cải tiến là hình thức nuôi chủ yếu bằng nguồn giống và thức ăn tự nhiên nhưng bổ sung thêm giống và thức ăn nhân tạo ở mức độ nhất định, đồng thời có đầu tư cải tạo thủy vực nhằm tăng sản lượng nuôi trồng.
            - Nuôi bán thâm canh là hình thức nuôi chủ yếu bằng giống nhân tạo và thức ăn nhân tạo nhưng có kết hợp nguồn thức ăn tự nhiên trong các thủy vực. Ngoài ra hệ thống ao nuôi còn được đầu tư cơ sở hạ tầng như hệ thống thủy lợi, điện, thiết bị cơ khí nhất là chủ động nguồn nước cấp, thoát, có khả năng xử lý và khống chế một số các yếu tố môi trường ao, đầm nuôi.
            - Nuôi thâm canh là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ tầng đầy đủ ( quy hoạch hệ thống ao hồ, thủy lợi, giao thông, điện nước, cơ khí), có thể chủ động khống chế các yếu tố môi trường, mật độ giống thả dầy, năng suất và hiệu quả.
            - Nuôi công nghiệp (siêu thâm canh) là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo với mật độ rất cao, quản lý môi trường nuôi cưỡng bức. Sử dụng máy móc thiết bị nhằm tạo cho đối tượng nuôi một môi trường sống, sinh trưởng tối ưu, không phụ thuộc vào thời tiết, mùa vụ trong thời gian nuôi ngắn nhất đạt được mục tiêu sản xuất và lợi nhuận.
Ø     Các hình thức nuôi trồng thủy sản
Nuôi cá nước ngọt, nước tĩnh trong các ao hồ nhỏ: Để đạt được năng suất cao người ta thường nuôi ghép nhiều loài cá có tập tính ăn khác nhau. Trong ao nuôi cá truyền thống có thể lựa chọn ao nuôi cá mè, cá trắm, cá rô phi là đối tượng nuôi chủ lực còn lại có thể ghép một phần các giống loài khác.Việc lựa chọn đối tượng nuôi chủ lực căn cứ vào điều kiện ao nuôi, thị trường tiêu thụ và khả năng đầu tư.
Nuôi cá nước chảy của các hộ gia đình miền núi: Người dân miền núi tận dụng các khe suối, kênh rạch, có nước chảy làm ao nuôi hoặc đào ao rồi dẫn dòng chảy qua đường ống vào ao nuôi. Cách làm rất đa dạng và sáng tạo, quy mô ao nhỏ bé nhưng tổng diện tích rất lớn. Đối tượng nuôi thường là cá trắm cỏ, cá chép, rô phi hoặc một số giống loài thủy sản bản địa.
            Nuôi cá lồng bè trên sông và hồ chứa: Tùy theo nơi đặt lồng bè để thiết kế bè nuôi phù hợp. Nuôi trên sông ở miền Bắc, kích thước lồng bè thường là 3x 2x 1.5 mét hoặc  4 x 2.5 x 2 mét. Nuôi cá tra, cá ba sa trên sông Tiền Giang, Hậu Giang 16 x 7 x 5 hoặc 12 x 6 x 4.5 mét...Ngoài ra, hình thức nuôi cá đăng quầng trên sông phát triển mạnh tại Miền Tây Nam bộ với đối tượng nuôi là các loài cá bản địa, cá tra, ba sa có năng suất và hiệu quả rất cao.
            Nuôi cá ruộng trũng: Hiện có các loại hình nuôi cá ruộng trũng xen canh và luân canh. Các tỉnh phía Bắc kết hợp lúa cá ở các chân ruộng trũng hoặc luân canh một vụ lúa, một vụ cá. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá chép và rô phi. Ruộng nuôi phải có bờ vùng, bờ thửa cao hơn mức nước cao nhất hằng năm khoảng 0.5 mét, có đường giao thông thuận tiện. Tại từng khu ruộng có thể thiết kế mương chứa nước có độ sâu từ 0,5 đến 1 mét để nuôi cá khi còn nhỏ và thu hoạch cá sau khi thu hoạch lúa. Ngoài ra, một hình thức nuôi là nuôi thủy sản mương vườn phát triển mạnh tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với đối tượng nuôi là tôm càng xanh, các loài cá bản địa có hiệu quả khá cao.
            Nuôi cá nước lợ và nước biển:  Nuôi cá nước lợ và cá biển phát triển chậm và mới được quan tâm vào những năm gần đây. Hiệu quả nuôi cao nhưng cũng nhiều rủi ro và vốn đầu tư ban đầu lớn .Thị trường tiêu thụ phát triển chưa ổn định và đặc thù sản phẩm cá nước lợ, cá biển là tươi sống nên việc vận chuyển, bảo quản sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn.
            Nuôi tôm bao gồm nuôi nước ngọt, nuôi tôm hùm trên biển, nuôi tôm sú mặn lợ, nuôi tôm thẻ chân trắng...Đây là các đối tượng nuôi tạo sản phẩm chủ lực cho tiêu dùng nội địa và chế biến xuất khẩu.
Ø     Tổ chức hoạt động  nuôi trồng thủy sản
Phát triển kinh tế thủy sản phù hợp với quy luật kinh tế thị trường và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần làm nền tảng là sự đổi mới quan trọng quyết định đến thành công của hoạt động nuôi trồng thủy sản thời gian qua. Thực chất của sự đổi mới này là tạo điều kiện cho mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh có quyền chủ động tìm kiếm thị trường và tổ chức sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường.
Đặc điểm lớn nhất của nuôi trồng thủy sản hộ gia đình và tư nhân là tính rộng rãi và phổ biến, tính đa dạng về ngành nghề và đối tượng nuôi trồng. Hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã chứng minh được tính phù hợp của quan hệ sản xuất với sự phát triển của trình độ sản xuất. Nhờ sự phù hợp đó nên sản xuất đã đạt kết quả cao.
Trong thời kỳ tích lũy vốn và cơ sở hạ tầng ban đầu, việc huy động các nguồn lực trong nội bộ nhân dân là vô cùng quan trọng. Nguồn vốn của từng người, từng gia đình tuy ít nhưng nguồn vốn của hàng triệu hộ nông ngư dân sẽ tạo ra nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản.
Vai trò và phân loại nguồn lực phát triển hoạt động nuôi trồng thủy sản
Tăng trưởng và phát triển hoạt động nuôi trồng thủy sản bao gồm sự tăng trưởng về quy mô, sản lượng theo thời kỳ và sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội trong ngành. Để tạo ra sự tăng trưởng phát triển đó, các yếu tố nguồn lực được sử dụng phải ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Xét đến cùng, nguồn gốc của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế là tăng trưởng của quá trình sản xuất vật chất cho xã hội. Đó là quá trình biến đối các yếu tố nguồn lực đầu vào thành các sản phẩm đầu ra với một công nghệ thích hợp.Sự phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào tạo điều kiện và cơ hội phát triển ngành Thủy sản.
Nguồn lực thủy vực (mặt nước)
Thủy vực hay mặt nước là nơi sinh sống của các loài giống thủy sản. Mặt nước sử dụng nuôi trồng thủy sản có hai loại là mặt nước tự nhiên và mặt nước nhân tạo do con người tạo ra bằng cách đào ao, chuyển đất canh tác từ ruộng trồng lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản, xây dựng hồ đập...Mặt nước ( thủy vực) là tư liệu sản xuất chủ yếu của hoạt động nuôi trồng thủy sản , nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động của con người. Có các loại thủy vực chính :
- Thủy vực nước ngọt: thuộc hệ thống các sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, hệ thống hồ chứa nước tự nhiên và hồ chứa nước nhân tạo, hệ thống ao hồ nhỏ, đàm ruộng trũng.
- Thủy vực nước lợ: Những nơi có sự pha trộn giữa nước ngọt từ sông ngòi đổ ra biến tạo nên các thủy vực nước lợ. Đó là các vùng nước cửa sông, ven biển và rừng ngập mặn, đàm phá nằm rải rác dọc chiều dài bờ biển. Thủy vực nước lợ là môi trường thuận lợi cho nhiều loại thủy sản có giá trị sinh sống và phát triển như tôm, cá nước lợ cua biển và rong câu. Đặc biệt rừng ngập mặn là bộ phận quan trọng của vùng sinh thái nước lợ, ở đó hình thành nguồn thức ăn chủ yếu của thảm thực vật cho các loài động thực vật thủy sinh, là nơi nuôi dưỡng chính cho các loại ấu trùng giống hải sản lớn lên và trưởng thành. Vì vậy, vùng nước lợ vừa có ý nghĩa sản xuất lớn vừa có ý nghĩa như một vùng không thể thay thế được trong việc bảo vệ và tái tạo nguồn lợi biển.
-Vùng nước mặn gần bờ : Xét từ góc độ kinh tế của nguồn lực sản xuất, vùng nước mặn gần bờ là vùng khai thác chủ yếu của nghề cá.
- Vùng nước mặn xa bờ : Đây là vùng biển có độ sâu 50 mét nước trở ra. Đối với nuôi trồng thủy sản thì đây là nguồn lực sản xuất phục vụ cho hoạt động nuôi hải sản lồng bè trên biển.
- Vùng đất cát ven biển : Là những vùng đất cát rộng lớn có thể đào đắp thành hố để nuôi thủy sản và nhuyễn thế.
Nguồn lực lao động trong nuôi trồng thủy sản
- Nguồn lực lao động là yếu tố hàng đầu trong mọi hoạt động sản xuất. Lao động nuôi trồng thủy sản gắn liền với lao động nông nghiệp nông thôn. Do đặc điểm kinh tế xã hội của các tổ chức sản xuất nuôi trồng thủy sản chủ yếu là kinh tế hộ, tư nhân và tập thể nên lực lượng lao động bao gồm cả người ngoài độ tuổi lao động mà có khả năng tham gia sản xuất. Lao động nuôi trồng thủy sản chuyên nghiệp là những người có thu nhập chủ yếu từ hoạt động này. Họ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.Ngoài ra còn một số lượng đông đảo lao động thủy sản bán chuyên nghiệp. Họ tham gia sản xuất nuôi trồng thủy sản  vào thời kỳ nông nhàn hoặc kết hợp trong quá trình sản xuất nông nghiệp để tăng thu nhập.
- Lao động nuôi trồng thủy sản mang tính thời vụ rõ nét. Nếu hiểu chất lượng nguồn lực bao gồm cả trí lực và thể lực thì người lao động trong lĩnh vực này có biểu hiện không đồng đều.
- Nguồn lực lao động nuôi trồng thủy sản  chỉ tách riêng ra khỏi nông nghiệp nông thôn khi nuôi trồng thủy sản trở thành một nghề chính. Hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển đã thu hút một số lượng lao động khá lớn chuyến sang từ nông nghiệp.
Nguồn lực vốn trong nuôi trồng thủy sản
- Vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất.Vốn là một nguồn lực hạn chế. Nó vận động không ngừng, đi từ phạm vi sản xuất sang lưu thông và quay trở lại sản xuất. Vốn sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn lưu động.
- Những bộ phận cấu thành vốn cố định bao gồm cả các tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật (như : máy móc, thiết bị, công nghệ, cơ sở hạ tầng vùng nuôi...)và các tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học (những đàn cá tôm bố mẹ dược nuôi dưỡng đặc biệt để nhân giống). Vốn lưu động là khoản tiền ứng trước để mua một số yếu tố đầu vào dự trữ cho quá trình sản xuất : thức ăn, chế phẩm sinh học, giống thủy sản... Chúng chuyển toàn bộ giá trị một lần vào sản phẩm mới.
- Chu kỳ sản xuất trong nuôi trồng thủy sản tương đối dài và có tính mùa vụ nên làm cho vốn sản xuất luân chuyển chậm chạp, vốn cố định thu hồi chậm, còn vốn lưu động thường bị ứ đọng và cần dự trữ tương đối trong thời gian dài.
- Vốn sản xuất tác động vào quá trình nuôi trồng thủy sản  không bằng cách trực tiếp mà phải thông qua môi trường nước và vật nuôi. Vì vậy cơ cấu vốn sản xuất phải phù hợp với từng loại hình mặt nước và từng loại phương thức nuôi.
- Nuôi trồng thủy sản  phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, khí hậu, thời tiết cho nên khi sử dụng vốn có nhiều rủi ro, có khi bị thiệt hại cả về người và tài sản.
Nguồn lực khoa học công nghệ trong nuôi trồng thủy sản
- Khoa học công nghệ ngày càng trở thành một yếu tố trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong hoạt động nuôi trồng thủy sản , tiến bộ khoa học công nghệ là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong nuôi trồng thủy sản.
- Trên thế giới vào những năm 90 của thế kỷ XX, có nhiều tiến bộ khoa học công nghệ mà nhân loại đã đạt được. Đó là phát triển nuôi trồng thủy sản thâm canh.Phát triển nuôi trồng thủy hải sản dựa vào tiến bộ khoa học của công nghệ sinh sản nhân tạo, lai tạo, thuần chủng các giống loài thủy hải sản, công nghiệp sản xuất thức ăn cho tôm cá. Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh ở các thủy vực nội địa và trên biển.
- Tiến bộ khoa học công nghệ với tư cách là một yếu tố sản xuất trực tiếp đã đẩy mạnh hoạt động nuôi trồng thủy sản cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, mở rộng cả quy mô và không gian, cường độ hoạt động. Vì vậy tăng cường đầu tư cho khoa học công nghệ sẽ thúc đẩy hoạt động nuôi trồng thủy sản.Hoạt động khuyến ngư đặc biệt quan trọng làm tăng tính hiệu quả của việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nuôi trồng thủy sản
            Một là, hoạt động nuôi trồng thủy sản cung cấp thực phẩm quý cho người tiêu dùng và nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, đồng thời là nguyên liệu cho phát triển một số ngành kinh tế khác.
            Theo các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về dinh dưỡng đã khẳng định: hầu hết các loại thủy sản đều là thực phẩm giầu dinh dưỡng, dễ tiêu hóa, phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng mọi lứa tuổi. Càng ngày sản phẩm thủy sản càng được coi như một loại thực phẩm ít gây bệnh và có khả năng chữa bệnh như: bệnh tim mạch, bệnh béo phì....Xét về thành phần dinh dưỡng cho thấy so với các loại thịt, các loại thực phẩm thủy sản chứa ít mỡ hơn, nhiều chất khoáng và chất đạm cao đặc biệt các loại thực phẩm thủy sản có nhiều aminoaxit không thay thế và rất cần thiết trong quá trình trao đổi chất, sinh trưởng và phát triển của con người
            Sản phẩm thủy sản nuôi trồng cung cấp một phần thức ăn cho chăn nuôi, đặc biệt cho chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Bột cá và các chế phẩm, phụ phẩm thủy sản chế biến là nguồn thức ăn giàu đạm, được sử dụng làm thức ăn hoặc chế biến thức ăn phục vụ chăn nuôi gia súc gia cầm.
            Theo tính toán của FAO, hàng năm có trên 25% sản lượng thủy sản được sử dụng trực tiếp vào chế biến thức ăn chăn nuôi. Ở nước ta nhu cầu sử dụng bột cá cho chế biến thức ăn gia súc ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu trong chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành một nghề sản xuất chính trong nông nghiệp.
            Hai là, nuôi trồng thủy sản nói riêng và ngành thủy sản nói chung phát triển sẽ có đóng góp quan trọng trong tăng trưởng của toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản là hoạt động có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng khi nguồn lợi cho khai thác ngày càng cạn kiệt. Vì vậy phát triển mạnh hoạt động nuôi trồng thủy sản làm giảm áp lực đối với lĩnh vực khai thác, có thời gian để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản tự nhiên.
            Trong những năm qua, tỷ trọng đóng góp của khu vực nông, lâm, thủy sản vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế có xu hướng giảm dần. Tốc độ gia tăng giá trị sản xuất của toàn khối nông, lâm, ngư nghiệp giai đoạn 2005 – 2009 chỉ có 5,1%. Đây là xu hướng phù hợp với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước. Trong khi tỷ trọng GDP đóng góp của ngành nông, lâm, thủy sản giảm thì tỷ trọng đóng góp ngành thủy sản lại tăng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt trung bình trong 5 năm 2005 – 2009 là 8,7% trong đó nuôi trồng thủy sản tăng 11,14%( báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tháng 11 năm 2009). Đó là kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực nông, lâm, thủy sản theo xu hướng tiến bộ để khai thác có hiệu quả thế mạnh mặt nước vào phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
            Ba là, Tham gia xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước.
            Đối với những nước có nhiều thủy vực và nguồn lợi thủy sản phong phú, phát triển hoạt động nuôi trồng thủy sản tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị, tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
            Bốn là, phát triển lĩnh vực nuôi trồng thủy sản góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về mặt kinh tế, ở những địa phương thuộc duyên hải Trung Bộ hoặc Tây Nam bộ, phát triển nuôi trồng thủy sản  là con đường làm giàu của các chủ trang trại.Ở các địa phương có lợi thế về mặt nước, phát triển nuôi trồng thủy sản là hướng chuyển dịch đạt hiệu quả kinh tế cao, tập trung tại các tỉnh trung du, miền núi trong các ao hồ nhỏ, sông suối, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc, trợ giúp cho việc xóa bỏ tập quán du canh, du cư của đồng bào.
1.2. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG LĨNH VỰC NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Nuôi trồng thủy sản là một ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và có tính mùa vụ.Vì vậy hoạt động đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản ngoài những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư phát triển còn mang đặc điểm khác biệt với đầu tư các ngành khác:
- Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ, manh mún và phân tán. Bước đầu mới chỉ hình thành được một số vùng sản xuất lớn, tập trung đối với đối tượng nuôi chủ yếu là tôm và cá da trơn. Quy mô đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản chủ yếu dưới hình thức nông hộ gắn với kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại
- Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản có liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường và phát triển xuất khẩu.Hoạt động nuôi trồng thủy sản có thể tự gây ô nhiễm cho môi trường nước, các thủy vực, và cũng có thể bị ảnh hưởng từ hoạt động của các ngành khác.Do vậy, đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản cần phải chú trọng tới sự phát triển hài hòa giữa thủy sản với các ngành kinh tế khác trên một vùng sinh thái
- Hoạt động đầu tư nuôi trồng thủy sản rộng khắp trên các vùng địa lý, tính chất sản xuất phức tạp, đa dạng, do đặc điểm khác biệt giữa các khu hệ động vật nuôi tại các vùng sinh thái khác nhau. Quá trình nuôi trồng thủy sản là quá trình tạo điều kiện nhân tạo phù hợp với đặc điểm sinh lý, sinh thái và sinh trưởng đối với từng đối tượng nuôi, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng
- Bên cạnh đó, việc đầu tư cho nuôi trồng thủy sản cần phải theo quy hoạch , phải tuân thủ mọi công đoạn của quá trình đầu tư đối với từng nguồn vốn. Đặc biệt  là việc sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước phải phù hợp với luật đầu tư và luật Ngân sách nhà nước.Ngoài ra việc đầu tư còn nhằm huy động cao nhất nguồn lực của toàn xã hội cho phát triển nuôi trồng thủy sản, bảo đảm lĩnh vực nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững.
 Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản là một trong những hoạt động đầu tư phát triển khi xem xét trên quan điểm phân công lao động xã hội chính là đầu tư theo ngành. Vì thế đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản mang đầy đủ nội dung và tính chất của hoạt động đầu tư phát triển.Tuy nhiên đây là một ngành có những đặc điểm khác biệt so với công nghiệp và dịch vụ, mang một số khía cạnh đặc thù như : mang tính mùa vụ, chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố thời tiết, khí hậu, chịu nhiều rủi ro...
            Nội dung đầu tư phát triển lĩnh vực nuôi trồng thủy sản bao gồm : Các khoản chi trực tiếp cho hoạt động nuôi trồng thủy sản như : chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi( xây dựng hệ thống thủy lợi, đường xá, ao nuôi...), chi cho các chương trình, dự án thuộc về lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, mua sắm máy móc thiết bị, khấu hao cơ bản..., Các khoản chi gián tiếp khác phục vụ hoạt động nuôi trồng thủy sản như : chi đầu tư xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất giống thủy sản, cơ sở chế biến thức ăn - chế phẩm sinh học thủy sản, cơ sở phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn nhân lực và hoạt động khuyến ngư, chi hỗ trợ cho các đơn vị nuôi trồng thủy sản khi có rủi ro xảy ra...
            Xuất phát từ đặc trưng kỹ thuật của hoạt động nuôi trồng thủy sản, nội dung đầu tư phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản bao gồm các hoạt động : chuẩn bị đầu tư, mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình thực hiện đầu tư, thi công xây lắp các công trình, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và xây dựng cơ bản khác có liên quan đến sự phát huy tác dụng sau này của công cuộc đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản.
Với nội dung của đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản trên đây, để tạo thuận lợi cho công tác quản lý việc sử dụng vốn nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, có thể phân chia vốn đầu tư phát triển trong nuôi trồng thủy sản thành những nội dung sau:
* Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm :
- Chi phí ban đầu và đất đai (nơi được sử dụng để tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi, cơ sở sản xuất giống thủy sản, cơ sở chế biến thức ăn, cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ và phục vụ công tác khuyến ngư,lắp đặt máy móc thiết bị tiến hành hoạt động nuôi trồng thủy sản)
- Chi phí xây dựng cấu trúc hạ tầng ( chi phí xây dựng các ao nuôi, các nhà xưởng, hệ thống cấp điện, cấp thoát nước, hệ thống xử lý môi trường, hệ thống đường giao thông nội bộ...)
-  Chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, dụng cụ, mua sắm phương tiện phục vụ hoạt động nuôi trồng thủy sản...
* Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm:
- Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như: chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí điện nước, thức ăn, giống...
- Chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm : chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định các dự án đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
- Chi phí dự phòng
            Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị đuợc chuyển hóa thành vốn đầu tư để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
            Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư phát triển lĩnh vực nuôi trồng thủy sản bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.3.1.Nguồn vốn đầu tư trong nước.
            Nguồn vốn đầu tư trong nước cho nuôi trồng thủy sản là phần tích lũy nội bộ của nền kinh tế bao gồm: tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, tiết kiệm của Chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của dân cư, tư nhân.
Ø     Nguồn vốn nhà nước cho nuôi trồng thủy sản bao gồm vốn ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
            - Nguồn vốn ngân sách nhà nước là khoản chi của ngân sách nhà nước chi cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng lãnh thổ, xây dựng quy hoạch đô thị và nông thôn.
Đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, nguồn vốn này thường được sử dụng cho công tác quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho các vùng nuôi tập trung gồm: đê bao, kênh cấp và thoát nước cấp I, cống và trạm bơm lớn, cảng cá, chợ cá và cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong cảng, chợ cá quốc gia ở các vùng trọng điểm nghề cá, xây dựng và hoàn thiện các trung tâm giống quốc gia, cải tạo nâng cấp các trại giống cấp I, nghiên cứu khoa học; nhập các đối tượng nuôi mới, công nghệ mới, xây dựng các trạm quan trắc, dự báo môi trường, kiểm dịch, đào tạo nguồn nhân lực, hoạt động khuyến ngư...
            - Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như trước những năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết kinh tế thì kể từ năm 1990 trở đi, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Nguồn vốn này thường tập trung đầu tư cho cải tạo nâng cấp, xây dựng mới thức ăn, sản xuất bột cá, cơ sở sản xuất giống cấp I, II và cải tạo ao, đầm nuôi của các thành phần kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho nuôi trồng thủy sản có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp về vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay Chủ đầu tư các dự án là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
            - Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ một khối lượng vốn khá lớn. Tuy vẫn còn một số hạn chế, nhưng xét một cách khách quan thì khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng được khẳng định, lợi nhuận và các khoản tích lũy của doanh nghiệp ngày càng tăng và đóng góp đáng kể vào quy mô vốn đầu tư toàn xã hội.
Ø     Nguồn vốn tư khu vực tư nhân
            Nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư cho nuôi trồng thủy sản  bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của doanh nghiệp dân doanh, của hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng khá lớn nhưng chưa được huy động triệt để để đầu tư vào phát triển nuôi trồng thủy sản, một phần do đặc thù của hoạt động đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản đòi hỏi quy mô vốn lớn, đầu tư chủ yếu vào cơ sở hạ tầng vùng nuôi, một phần do mức độ tích tụ và tập trung của các nguồn vốn này hạn chế, nhỏ lẻ, nằm rải rác trong khu vực tư nhân.
            Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do thu nhập gia tăng hoặc do tích lũy truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong một thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ động và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Vấn đề là phải có cơ chế, chính sách linh hoạt để huy động triệt để nguồn vốn này phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển trên cả nước
            Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng đầu tư từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức: Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
            - Tài trợ phát triển chính thức (ODF): bao gồm Viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác.
            - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
            - Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
            - Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
            Trong các nguồn vốn nước ngoài thì nguồn vốn ODA, FDI là nguồn đầu tư chủ yếu cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Nguồn vốn này thường được đầu tư vào việc trợ giúp kỹ thuật, tư vấn, đào tạo nhập các công nghệ mới, chuyển giao công nghệ và khuyến ngư.


1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư phát triển NTTS
Môi trường kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến ý tưởng đầu tư và chi phối hoạt động của các dự án: tạo thuận lợi hoặc gây cản trở trong quá trình thực hiện dự án. Ví dụ như: tốc độ tăng trưởng, lãi suất, tỷ lệ lạm phát, tình hình ngoại thương và các định chế có liên quan, tình hình thâm hụt ngân sách, hệ thống kinh tế và các chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước...
Môi trường chính trị, pháp luật : Sự ổn định về chính trị cũng như những đảm bảo về mặt pháp lý liên quan đến quyền sở hữu và tài sản có ý nghĩa quan trọng rất lớn ảnh hưởng đến ý định và hành vi của nhà đầu tư
Môi trường văn hóa xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư của từng dự án. Ví dụ, đối với dự án nuôi trồng thủy sản thì các yếu tố như tập quán canh tác, tình trạng sử dụng đất,  tình hình sử dụng sức lao động, tổ chức lao động...ảnh hưởng rất lớn đến sự lựa chọn cơ hội đầu tư. Thậm chí một số yếu tố còn quyết định khả năng thành công của dự án.
 Môi trường tự nhiên và nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác cho việc thực hiện dự án.Tùy từng dự án  mà yếu tố môi trường tự nhiên sẽ có ảnh hưởng đến sự thành công của mỗi công cuộc đầu tư cụ thể. Đối với các dự án nuôi trồng thủy sản tình hình khí hậu (diễn biến về lượng mưa qua các tháng) ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và hiệu quả của dự án.
Quy hoạch và kế hoạch phát triển các dự án đầu tư: Quy hoạch và kế hoạch là một trong những căn cứ phát hiện cơ hội đầu tư, quyết định đến chất lượng và hiệu quả của dự án đầu tư. Không ít dự án lớn và quan trọng khi ra quyết định về chủ trương đầu tư đã thoát ly quy hoạch nên  thiếu chính xác.Có những dự án trong quá trình triển khai thực hiện phải di dời gây tổn thất, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp.Hậu quả là nhiều khu nuôi trồng thủy sản công nghiệp xây xong không hoạt động được do thiếu nguồn nước cấp để nuôi, hoặc nếu hoạt động được thì công suất thấp, không đem lại hiệu quả kinh tế.
Thị trường sản phẩm nuôi trồng thủy sản: Thị trường có ảnh hưởng quan trọng trong hoạt động đầu tư của dự án.Thị trường cho phép nhà đầu tư đánh giá, phân tích cung cầu sản phẩm thủy sản nuôi trồng ở hiện tại và dự báo cung cầu thị trường trong tương lai. Từ sự phản hồi của thị trường nhà đầu tư sẽ đi đến quyết định có nên đầu tư không và xác định quy mô đầu tư hợp lý.
1.3.1. Chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động đầu tư phát triển NTTS
            Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã thực hiện, các tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm của lĩnh vực này.
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi ra để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây dựng, chi phí cho công tác mua sắm, lắp đặt thiết bị, chi phí quản lý, và các chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán  được ghi trong dự án đầu tư được duyệt
            Chi phí xây dựng bao gồm:
            - Chi phí xây dựng các công trình, hạng mục công trình thuộc dự án.
            - Chi phí phá và tháo dỡ các vật kiến trúc cũ (có tính đến giá trị vật tư, vật liệu thu hồi (nếu có) để giảm vốn đầu tư
            - Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng
            - Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công ( đường thi công điện nước...) và nhà tạm tại hiện trường để ở và điều hành thi công (nếu có)
            Chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị bao gồm:
            - Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ (gồm cả thiết bị phi tiêu chuẩn cần sản xuất ,gia công), chi phí đào tạo chuyển giao công nghệ (nếu có)
            - Chi phí vận chuyển từ nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho bến bãi, chi phí bảo quản, bảo dưỡng kho bãi tại hiện trường.
            - Thuế và chi phí bảo hiểm thiết bị công trình
            - Chi phí lắp đặt thiết bị và thí nghiệm, hiệu chỉnh nếu có
            Chi phí quản lý dự án và các chi phí khác bao gồm:
            - Chi phí quản lý chung của dự án, chi phí tổ chức thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư, chi phí thẩm định hoặc thẩm tra thiết kế, tổng dự toán, dự toán xây dựng công trình, chi phí lập hồ sơ dự thầu, hồ sơ mời thầu, chi phí giám sát thi công xây dựng, giám sát khảo sát xây dựng và lắp đặt thiết bị, chi phí kiểm định, chi phí nghiệm thu, quyết toán , quy đổi vốn đầu tư và các chi phí quản lý khác.
            Đối với chi phí quản lý dự án và chi phí khác của dự án sử dụng nguồn vốn ODA thì ngoài các chi phí trên thì còn một số chi phí khác như:  chi phí lập văn kiện dự án, chi phí bổ sung, chi phí thẩm định, hoàn thiện văn kiện dự án, chi phí kiểm toán quốc tế được xác định theo hướng dẫn của nhà tài trợ quốc tế hoặc lập dự toán trình người có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt.
            Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay.
            Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư.
            Nói chung, đối với các công cuộc đầu tư quy mô lớn, có nhiều đối tượng, hạng mục xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập thì được áp dụng hình thức huy động bộ phận sau khi từng đối tượng, hạng mục đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, lắp đặt. Còn đối với các công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì áp dụng hình thức huy động toàn bộ khi tất cả các đối tượng, hạng mục công trình đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và lắp đặt.
            Các tài sản cố định được huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của các công cuộc đầu tư, chúng có thể được biểu hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Các chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật như số lượng các tài sản cố định được huy động (số lượng ao nuôi, số trại giống, số cơ sở thức ăn, số trạm khuyến ngư, số cơ sở đào tạo nguồn nhân lực được xây dựng, số mét kênh mương được đào đắp, số lồng bè nuôi, số cống cấp thoát nước được xây dựng...) Công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng cuả các tài sản cố định được huy động ( số lượng con giống được sản xuất hàng năm, số lượng tấn thức ăn được sản xuất, sản lượng nuôi trồng thủy sản của các khu nuôi, số hecta mặt nước đưa vào nuôi trồng thủy sản, số lượt người dân được tham gia tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản ....), mức tiêu dùng nguyên, vật liệu trong một đơn vị thời gian ( sản lượng thủy sản được sản xuất trong một mùa vụ....)
            Chỉ tiêu giá trị tài sản cố định được huy động tính theo giá dự toán hoặc giá trị thực tế tùy thuộc vào mục đích sử dụng chúng trong công tác nghiên cứu kinh tế hay quản lý hoạt động đầu tư. Cụ thể giá trị dự toán được sử dụng để làm cơ sở tính toán giá trị thực tế cuả tài sản cố định, để lập kế hoạch về vốn đầu tư và tính  khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Giá trị dự toán là cơ sở để tiến hành thanh quyết toán giữa chủ đầu tư và các đơn vị nhận thầu.
            Giá trị thực tế của các tài sản cố định huy động được sử dụng để kiểm tra việc thực hiện kỷ luật tài chính, dự toán đối với các công cuộc đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước để ghi vào bảng cân đối tài sản cố định của cơ sở, là một cơ sở để tính mức khấu hao hàng năm, phục vụ công tác hạch toán kinh tế của cơ sở, đánh giá kết quả hoạt động tài chính của cơ sở.
            Sử dụng chỉ tiêu giá trị cho phép xác định toàn bộ khối lượng tài sản cố định được huy động của toàn  bộ lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cũng như tất cả các lĩnh vực khác. Đánh giá tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch và sự biến động của chỉ tiêu này ở mọi cấp độ quản lý khác nhau.

            Các chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư ở cấp độ ngành ở địa phương là:
            - Mức tăng của giá trị sản xuất  so với toàn bộ vốn đầu  tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu (ký hiệu HIv(GO))
            Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của giá trị sản xuất với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản một tỉnh
                        HIv(GO) = rGO/IV(PHTD)
Trong đó: rGO giá trị sản xuất tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
            IV(PHTD) : Vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh
            Chỉ tiêu này cho biết 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu tạo ra được bao nhiêu đơn vị mức tăng của giá trị sản xuất trong kỳ nghiên cứu cho lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
- Mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu (ký hiệu HIV(VA)
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của giá trị gia tăng với toàn bộ vốn đầu tư thực hiện trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản một tỉnh.
HIV(VA) = rVA/IV(PHTD)
Trong đó:
            rVA là mức tăng của giá trị tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản một tỉnh
            IV(PHTD) : Vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực  nuôi trồng thủy sản  trên địa bàn tỉnh.
            Chỉ tiêu này cho biết 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu tạo ra được bao nhiêu đơn vị mức tăng của giá trị tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
- Mức tăng của của giá trị tăng thêm so với giá trị tài sản cố định huy động trong kỳ nghiên cứu của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản  một tỉnh HF(VA)
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội lĩnh vực nuôi trồng thủy sản so với toàn bộ giá trị tài sản cố định huy động của lĩnh vực đó trong kỳ nghiên cứu một tỉnh.
                        HF(VA) = rVA/F
Trong đó:
F là giá trị tài sản cố định  huy động của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản  trong kỳ nghiên cứu một tỉnh
            Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá hiệu quả đầu tư cho lĩnh vực nuôi trồng thủy sản một tỉnh. Nó phản ánh một đơn vị tài sản cố định huy động trong kỳ đã tạo ra được bao nhiêu mức tăng của giá trị tăng thêm trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản một tỉnh.
- Hệ số gia tăng vốn – sản lượng (hệ số ICOR)
                                    ICOR = Iv/rVA
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị giá trị tăng thêm trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cần bao nhiêu vốn đầu tư.
            Khi xét trên góc độ sử dụng nguồn lực đầu vào là vốn và đầu ra là mức tăng trưởng thì hệ số ICOR phản ánh đúng hiệu quả của việc sử dụng vốn. Tuy nhiên sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá hiệu quả đầu tư thì có những hạn chế như: chưa tính đến độ trễ của thời gian trong đầu tư, chưa xem xét đến ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào khác như lao động, đất đai, công nghệ…và ảnh hưởng của các yếu tố ngoại ứng. Chính vì vậy, khi sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá hiệu qả hoạt động đầu tư phát triển lĩnh vực nuôi trồng thủy sản  ở phạm vi một tỉnh trong các thời kỳ hoạt động phải xem xét trong điều kiện nhất định khi các điều kiện liên quan đến việc gia tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản  không đổi.
Các chỉ tiêu cơ bản được sử dụng để phản ánh hiệu quả xã hội của hoạt động đầu tư phát triển lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của một tỉnh là:
            - Số lao động có việc làm do đầu tư và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
- Tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý: theo các mô hình hộ gia đình-trang trại, hợp tác xã, nông trường.
- Công bằng xã hội : khoảng cách giàu nghèo, xoá đói giảm nghèo, tiếp cận các dịch vụ xã hội, sử dụng đất…
- An ninh lương thực và thực phẩm: diện tích, sản lượng lương thực và nuôi trồng thủy sản
- Phát triển nguồn nhân lực: Trình độ văn hoá, khoa học công nghệ
- Đổi mới cơ chế chính sách và đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp
            Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản của Thái Lan rất lớn, đặc biệt là tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ, nuôi lồng bè trên biển và nuôi nước ngọt. Những chính sách được Thái Lan áp dụng trong đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản  có hiệu quả là:
            - Nhà nước quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi có diện tích lớn sau đó giao lại cho địa phương, hoặc các tổ chức cá nhân tiếp tục đầu tư vào nuôi trồng thủy sản.
            - Những khâu và công trình quan trọng mà tư nhân không làm được, nhà nước đứng ra đầu tư và thu hút vốn như: công tác bảo vệ và cải tạo nguồn gen thủy sản, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường...
            - Chú ý đưa công nghệ sinh học, kỹ thuật mới vào nuôi trồng thủy sản
            - Khơi thông và phát triển các hình thức tín dụng nhân dân bằng việc vay qua các dự án.
            Để tăng khả năng khai thác nguồn vốn ODA Thái Lan đã làm tốt một số công tác sau:
            - Chuẩn bị tốt các dự án ODA, xác định rõ tính cấp thiết của dự án, định rõ mức vốn cần vay, mức vốn cần huy động trong nước, tính toán rõ khả năng hoàn trả trong tương lai, đàm phán cấp Chính phủ để vận động nguồn vốn ODA. Các chủ đầu tư không được tiếp xúc với đối tác nước ngoài để tránh những cuộc vận động ngầm, không khách quan.
            - Xác định đúng lĩnh vực ưu tiên: Phần viện trợ không hoàn lại sử dụng vào đầu tư các công trình, kết cấu hạ tầng xã hội hoặc lĩnh vực có tác động lớn đến đại đa số nhân dân. Phần vốn hoàn lại sử dụng để đầu tư cho các lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài, không hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước như các dự án hạ tầng kinh tế giao thông, viễn thông, năng lượng, thủy lợi....
             - Xác định rõ nguyên tắc trong sử dụng vốn ODA: Mỗi dự án bắt buộc đòi hỏi phải có khoản chi về tư vấn chiếm 4 – 5% giá trị dự án và phải thực hiện bởi các công ty tư vấn có trình độ, có năng lực thực sự về lập dự án, thiết kế, mua sắm thiết bị hiện đại với giá cả hợp lý. Phần thi công công trình và mua sắm thiết bị phải được đầu thấu theo nguyên tắc nếu trong nước đảm đương được thì thực hiện đấu thầu trong nước, nếu đầu thấu quốc tế phải tham khảo chi tiết về giá, tính năng kỹ thuật để chọn nhà thầu thầu tốt nhất.
            - Quy định hạn mức vay và trả nợ hàng năm: Mức vay không vượt quá 10% thu Ngân sách, mức trả nợ bằng 9% kim ngạch xuất khẩu hoặc 20% chi Ngân sách. Đây là một trong những biện pháp giúp Thái Lan không bị sa lầy và vòng nợ nần do xác định rõ trần vay trả hàng năm. Mọi khoản vay không được tính là khoản thu ngân sách nhưng các khoản trả nợ phải tính vào khoản chi để cân đối ngân sách quốc gia hàng năm.

            Bến Tre có tiềm năng và lợi thế về phát triển thủy sản. Thời gian qua, nghề nuôi thủy sản ở Bến Tre đã đạt nhiều kết quả tốt, góp phần tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích vùng nước, tạo thêm nhiều việc làm ổn định cho người lao động và tăng kim ngạch xuất khẩu.Trong quy hoạch phát triển nuôi thủy sản, ngành thủy sản và các địa phương coi trọng tính ổn định, bền vững.Theo đó mở rộng các hình thức nuôi theo hướng công nghiệp, các hình thức nuôi kết hợp với phát triển các ngành nông nghiệp khác như nuôi tôm kết hợp trồng rừng, trồng lúa, nuôi tôm sinh thái theo quy trình sản xuất sạch, tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao cho chế biến. Giai đoạn 2005 - 2009, nghề nuôi thủy sản ở Bến Tre phát triển mạnh ở cả ba vùng nước ngọt, nước lợ và biển. Tổng diện tích nuôi thủy sản là 34.400 ha, trong đó 29.400 ha nuôi tôm sú (6.300 ha tôm - lúa, 2.100 ha tôm - rừng), 2.900 ha nuôi nghêu. Năm nay, tổng diện tích nuôi thủy sản của tỉnh đạt tới 36 nghìn ha, trong đó diện tích nuôi nghêu là 3.900 ha. Ở vùng nước ngọt, phong trào nuôi tôm càng xanh phát triển mạnh (nuôi dưới vườn dừa, cồn, bãi ven sông) với gần 3.000 ha. Diện tích nuôi tôm công nghiệp cũng đạt 1.500 ha (gấp sáu lần so năm 2001). Thời gian qua, tỉnh Bến Tre không ngừng có những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản:
- Tỉnh đầu tư thực hiện nhiều dự án nuôi tôm công nghiệp ( dự án 400 ha nuôi tôm công nghiệp tại các xã Thạnh Phước, Bình Thắng (huyện Bình Ðại) thu được những kết quả khả quan. Những kết quả của dự án này đã hấp dẫn và thu hút nhiều nguồn lực của các thành phần kinh tế đầu tư nuôi thủy sản. Hiện nay, Bến Tre có hai doanh nghiệp nhà nước, bảy doanh nghiệp tư nhân, và nhiều tổ hợp tác, hợp tác xã hộ nông dân trực tiếp tham gia nuôi thủy sản, với các quy mô, loại hình sản xuất phù hợp.
- Trong tổ chức sản xuất nuôi thủy sản, ở Bến Tre, nhiều loại hình kinh tế hợp tác hình thành và có xu hướng phát triển. Các hình thức hợp tác này đã huy động được nguồn vốn khá lớn của các thành phần kinh tế. Hiện nay, toàn tỉnh có 60 tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp với diện tích từ hai ha đến 30 ha do nhóm hộ, gia đình và hàng trăm cổ đông góp vốn. Nhiều tổ hợp tác đạt hiệu quả kinh tế cao (thu lãi 10-20%). Ở vùng nuôi nghêu, Bến Tre hình thành ba HTX nuôi nghêu, đó là các HTX Rạng Ðông, Ðồng Tâm (huyện Bình Ðại) và Phong Hải (huyện Thạnh Phú). Ngoài ra còn 128 tập đoàn nuôi nghêu (chủ yếu ở huyện Ba Tri). Mỗi tập đoàn có khoảng 10-20 tập đoàn viên (nuôi nghêu trên diện tích 10-30 ha). HTX Rạng Ðông (xã Thới Thuận) có 1.300 xã viên (100% số hộ dân là xã viên HTX)
- Nhằm thúc đẩy nhanh nhịp độ phát triển nghề nuôi thủy sản, tỉnh thực hiện nhiều chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho nhân dân, các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư vào sản xuất; trong đó có chính sách về quản lý, sử dụng đất. Tỉnh đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để nhân dân yên tâm phát triển sản xuất, có điều kiện vay được vốn đầu tư nuôi thủy sản; chủ trương kiểm kê đất có thể nuôi thủy sản do Nhà nước quản lý, để đưa vào tổ chức hợp tác nuôi tôm công nghiệp, hoặc để các tổ chức, cá nhân thuê đầu tư phát triển nuôi, sản xuất giống thủy sản.
Ø     Từ kinh nghiệm đầu tư phát triển NTTS của Thái Lan
- Thành phố cần có những quy hoạch chi tiết cho từng vùng nuôi, xây dựng cơ sở hạ tầng, và đầu tư vào các dự án nuôi trồng thủy sản với các hạng mục trọng điểm sau đó nên giao lại cho địa phương hoặc các doanh nghiệp,tổ chức cá nhân tiếp tục đầu tư, tiến hành hoạt động nuôi trồng.
- Hải Phòng nên chú trọng việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới trong nuôi trồng thủy sản để nâng cao năng suất
- Thái Lan rất thành công trong việc thu hút và quản lý nguồn vốn ODA, trong khi đó Hải Phòng chưa nhận được sự đầu tư từ nguồn vốn này. Vì thế để có thể khai thác tốt được vốn ODA, Hải Phòng nên học tập một số kinh nghiệm như: xác định đúng lĩnh vực ưu tiên của các dự án sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản ( như: phần viện trợ không hoàn lại thì đầu tư vào hạng mục cơ sở hạ tầng, trung tâm khuyến ngư, cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ…) hoặc lĩnh vực có tác động lớn đến đa số người dân, phần viện trợ có hoàn lại thì đầu tư vào những hạng mục như xây dựng các ao nuôi, mua trang thiết bị, máy móc…Xác định rõ nguyên tắc trong sử dụng vốn vay để tránh rơi vào tình trạng nợ nần. Bên cạnh đó, thành phố nên có những chính sách khuyến khích, tạo hàng lang pháp thông thoáng, cải thiện môi trường đầu tư để có thể thu hút tốt nguồn vốn này
Ø     Từ kinh nghiệm đầu tư phát triển NTTS của Bến Tre
- Đối với quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản, Hải Phòng nên coi trọng tính ổn định, bền vững của các vùng nuôi, tránh tình trạng các dự án nuôi trồng thủy sản vừa xây xong, chưa được vào vận hành đã bị dừng lại vì thay đổi quy hoạch.
- Thành phố kết hợp với các Sở ban ngành có liên quan nên chỉ đạo thực hiện và hỗ trợ thành công một dự án nuôi trồng thủy sản công nghiệp.Từ đó mới tạo được niềm tin và  thu hút được các thành phần kinh tế mạnh dạn tham gia vào hoạt động đầu tư nuôi trồng thủy sản.
- Để huy động được nguồn vốn trong dân cư, Hải Phòng nên học tập Bến Tre trong hoạt động tổ chức sản xuất nuôi trồng thủy sản: phát triển loại hình kinh tế hợp tác, các tổ đội sản xuất… Giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà khoa học – nhà nông – nhà doanh nghiệp trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
- Nghiên cứu, áp dụng những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư nuôi trồng thủy sản của Bến Tre đã thực hiện thành công như: chính sách quản lý sử dụng đất, mặt nước, hỗ trợ thủ tục vay vốn của người dân tham gia nuôi trồng thủy sản tại ngân hàng…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét